Khemārāma tổng hợp và tóm tắt
Pháp cú số 11 + 12
Asāre sāramatino, Sāre cāsāradassino; Te sāraṃ nādhigacchanti, Micchāsaṅkappagocarā. |
Those who mistake the unessential to be essential and the essential to be unessential, dwelling in wrong thoughts, never arrive at the essential. |
Không chân, tưởng chân thật, Chân thật, thấy không chân Chúng không đạt chân thật Do tà tư, tà hạnh. |
Sārañ ca sārato ñatvā, Asārañ ca asārato; Te sāraṃ adhigacchanti, Sammasaṅkappagocarā. |
Those who know the essential to be essential and the unessential to be unessential, dwelling in right thoughts, do arrive at the essential. |
Chân thật, biết chân thật, Không chân, biết không chân Chúng đạt được chân thật Do chánh tư, chánh hạnh. |
(*) Tích truyện pháp cú:
Đức Bổn Sư thuyết ra khi Ngài ngự tại Veḷuvana (Trúc Lâm), đề cập đến ông Sañjaya không đứng về phía Ngài như lời tường trình của 2 vị thượng thủ Thinh văn (Aggasāvaka).
(*) Bồ Tát Sumedha được thọ ký:
Cách đây 4 A-tăng-kỳ (Asaṅkheyya) và một trăm ngàn đại kiếp (kappa) quả
địa cầu, đức Bồ Tát bấy giờ là một công tử dòng Bà la môn (Brahmaṇa). Sau khi học mọi bá nghệ và song thân qua đời, công tử vào núi tuyết (Himavanta) xuất gia làm đạo sĩ. Trong lúc hành thiền, đắc pháp Thần thông, đạo sĩ bay lên hư không ngó xuống thấy thiên hạ đang quét dọn con đường từ ngôi Tịnh xá Sudassana (Thiện Kiến) của đấng Thập Lực Dīpaṅkara.
Đạo sĩ cũng tự mình lãnh một phần công quả, ráng hết sức làm nhưng không xong kịp bèn lấy thân mình trải lên chỗ đường còn dang dở rồi thỉnh Đức Phật cùng chư Thánh chúng (Sāvakasaṅgha) đi qua. Đạo sĩ được đức Thế Tôn thọ ký cho sẽ trở thành một vị Chánh Đẳng Giác sau 4 Asaṅkheyya và 100,000 kappa nữa. Đức Bồ Tát vun bồi Ba-la-mật qua 23 đời chư Phật:
-
- Đức Phật Koṇḍañña,
- Phật Buddhavaṃsa
- Phật Sumana,
- Phật Revata,
- Phật Sobhita,
- Phật Anomadassī,
- Phật Pudama
- Phật Nārada
- Phật Padumuttara,
- Phật Sumedha,
- Phật Sujāta,
- Phật Piyadassī,
- Phật Atthadassī,
- Phật Dhammadassī,
- Phật Siddhattha,
- Phật Tissa,
- Phật Pussa,
- Phật Vipassī,
- Phật Sikhī,
- Phật Vessabhū,
- Phật Kakusandha,
- Phật Konāgamana và
- Phật Kassapa
(*) Sự đản sanh của thiên tử Vessantara:
Sự thọ sanh làm Thế tử Vessantara đã khiến cho quả địa cầu
rung động bảy lần. Khi Ngài thực hành đủ năm pháp đại thí (Mahāpariccāga), dứt tình thân ái, hy sinh cả vợ và con. Mạng chung, Đức Vessantara sanh lên cõi Tusita (Đâu Suất), sống hết bốn ngàn tuổi thọ như ý thì được chư thiên trong mười ngàn cõi Sa bà (cakkavāḷa). Đức Bồ Tát liền suy ngẫm 5 điều đại quán:
“Kālaṃ desaññe dīpañca, Kulaṃ māterameva ca; Ime pañca viloketvā, Upajjanti mahāyasāti” |
“Chọn thời, xứ, chọn luôn châu nữa, Lựa dòng sang, rồi lựa mẹ hiền. Năm điều đại quán đủ duyên, Xin cung thỉnh Đại hoàng thiên lâm phàm”.
|
Mạng chung, đức Bồ Tát sanh vào dòng họ Sakya, làm vương tử. Khi lần lượt xúc kiến ba vị Sứ trời (Devadūta) mệnh danh là Lão (Jiṇṇa), Bịnh (Byādhi) và Tử (Mata), cả ba lần Ngài đều phát tâm kinh cảm, bàng hoàng quay gót về cung. Lần thứ tư thì ngài gặp được một vị Sa-môn và ngài đã phát tâm xuất gia. Ngay lúc ấy, ngài nhận được tin hoàng tử Rāhula chào đời, ngài không do dự quyết chí ra đi trước khi bị sợi dây phụ tử ràng buộc. Đêm ấy, khi các cung tần mỹ nữ đang ngây ngủ, lên yên thần mã Kaṇṭhaka, đèo thêm Channa làm bạn đồng hành, Đức Bồ Tát bắt đầu chuyến đi lịch sử, có đủ mặt chư thiên trong mười ngàn cõi Sa bà tụ hội lại tiễn đưa.
(*) Bồ Tát xuất gia và hành khổ hạnh:
Vượt dòng sông Anoma, Đức Bồ Tát tự xuất gia, rồi lần hồi tiến đến thành Rājagaha. Sau khi học hết phương pháp của hai vị thầy Ālāra và Uddaka, đức Bồ Tát giã từ và thực hành khổ hạnh trong sáu năm ròng rã. Một buổi sáng bình minh vào ngày rằm tháng tư âm lịch (Visākha), sau khi độ xong bữa
cơm sữa đề hồ do nàng Sujātā dâng cúng, đức Bồ Tát ném bát vàng xuống sông
Nerañjara (Ni Liên Thiền) và khiến bát ấy trôi ngược dòng sông theo ước nguyện. Dựa mé sông Ni Liên lặng lờ, trong rừng Mahāvana (Đại Lâm) u nhã, Đức Bồ
Tát tinh tấn công phu suốt ngày hôm ấy. Mãi đến xế chiều, có ông lão Sotthiya (An
Hòa) hiến dâng cho Ngài một bó cỏ. Ngài nhận lãnh xong thì Long Vương (Nāgarāja) hiện đến ca tụng ân đức của Ngài. Đức Bồ Tát nguyện rằng:
-- “Na tāvimaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmi, yāva me anupādāya asevehi cittaṃ na
vimuccissati. Ta nhất định không bao giờ từ bỏ thế ngồi nầy, cho đến bao giờ tâm
Ta được giải thoát, tất cả lậu hoặc (āsava) không còn chấp thủ nữa mới thôi.”
(*) Chiến thắng Ma vương + thành tựu Chánh Giác:
Đoạn Ngài ngự lên bồ đoàn, ngồi quay mặt về hướng Đông, mặt trời chưa lặn,
Ngài đã thắng đội binh Ma vương (mārabala). Canh một đầu hôm, Ngài đắc Túc mạng minh (Pubbenivā – saññāṇa), canh giữa Ngài đắc Sanh tử minh (Cutūpatātaññāṇa) và đến canh cuối Ngài đắc Minh thấu triệt nhân sanh khởi của vạn pháp (Paccayākarenāṇa). Khi vầng thái dương ló dạng, Ngài chứng đạo quả Toàn Giác gồm đủ ân đức của một vị Thập Lực (Dasabala) nhất là bốn Thần túc (Dục – Cần – Tâm – Thẩm).
Trải qua 49 ngày, Ngài không lìa xa cội Bồ Đề, đến thất thứ tám, Ngài ngự đến gốc cây Ajapāla nigrodha, ngồi trầm tư mặc tưởng nguyên lí cao thâm mầu nhiệm của Chánh Pháp. Sau lời thỉnh cầu của Phạm thiên Sahampati, đức Thế Tôn hướng tâm đến hai vị thầy của mình, khi biết họ đã mạng chung, Ngài đi đến nhóm năm thầy Kiều Trần Như. Giữa đường, Ngài có gặp du sĩ Upaka.
(*) Chuyển Pháp luân vô thượng:
Ngày rằm tháng sáu âm lịch (āsāḷha), Ngài mới tới chỗ ngụ của năm vị Tỳ khưu (Pañcavaggiya) trong rừng Isipataṇa migādāya. Đức Phật thuyết Chuyển Pháp Luân (Dhamma cakkaṃ pavatteti) khiến cho một trăm tám mươi triệu Phạm Thiên với vị lãnh đạo là Koṇḍañña uống được nước nguồn bất tử (Amataṃ pāyati).
(*) Tế độ Yassa và 54 người bạn:
Người tiếp theo được đức Thế Tôn tế độ là công tử Yassa. Ngài lên tiếng gọi: “Lại đây Yasa”. Nội trong ngày ấy, Ngài thuyết pháp độ công tử Yasa đắc quả Nhập Lưu (Sotāpatti) và tiếp qua ngày sau đắc quả A La Hán. Kế đó, Ngài tiếp độ năm mươi bốn người bạn thân của công tử Yasa bằng cách bảo cho họ xuất gia Ehibhikkhu (Thiện lai Tỳ khưu) và đắc luôn quả A La Hán. Trên thế gian lúc này có 61 vị A-la-hán.
Sau mùa hạ đầu tiên, Đức Bổn Sư phán rằng: “Caratha, bhikkhave, cārikanti” – “Nầy các Tỳ khưu! Hãy cất bước vân du”. Phái sáu mươi vị sứ đồ đi tản mác tứ phương, rồi Đức Bổn Sư thân hành ngự qua miền rừng Uruvela (Quãng Đại Biên).
(*) Tế độ cho 30 công tử quý tộc Bhadda:
Tới khu Kappāsikavanasaṇḍa (Miên Hoa Viên Lâm) là rừng trồng
bông vải ở khoảng giữa đường, Đức Bổn Sư hóa độ cả ba mươi vị công tử trong nhóm quý tộc Bhadda vaggiya. Trong số nầy các vị thấp kém nhất đắc quả Tu Đà Hườn vị ưu tú nhất đắc A Na Hàm. Nhưng rồi Đức Bổn Sư cũng độ cho các vị đó xuất gia bằng cách Ehibhikkhu và phái đi tha phương hành đạo.
(*) Tế độ nhóm 3 anh em Kassapa:
Ngài tiếp tục ngự hành đến rừng Uruvela, biến hóa ba ngàn năm trăm phép lạ
(pātihāriya) thu phục ba anh em ngoại đạo tóc bện (Jaṭila) đứng đầu là đạo sĩ Uruvela Kassapa cùng với một ngàn đệ tử của họ, Ngài cho tất cả xuất gia Ehibhikkhu cho nhóm trong xứ Gayāsīla, rồi Ngài thuyết thời pháp Viêm Nhiệt Luân (Aditta pariyāya) “Giải về lửa phiền não”, hóa độ cho tất cả đắc quả A La Hán.
(*) Hội ngộ đức vua Bimbisāra:
Đức Thế Tôn cùng một ngàn vị A-la-hán đi về Laṭṭhivanuyyāna (Công Viên Tiểu Thợ Lâm) ở phụ cận thành Rājagaha để gặp vua Bimbisāra (Tân Bà Sa). Sau khi nghe bài pháp thoại, đức vua với mười một muôn vị tùy giá đắc quả Nhập Lưu, còn một muôn vị phát khởi đức tin và quy y Tam Bảo. Đức vua dâng cúng Veḷuvana đến đức Thế Tôn và Tăng đoàn. Đây cũng là ngôi Tịnh Xá mà hai vị thượng thủ thinh văn đến hầu Phật lần đầu tiên.
(*) Câu chuyện về hai vị thượng thủ thinh văn (Aggasāvakā):
Hai gia tộc của bà Sārī và bà Moggallī từ bảy đời liên tiếp đã từng giao hảo mật thiết với nhau. Cả hai người cùng thọ thai một lần và sau mười tháng đều sinh ra hai người con trai, con bà Sārī được mệnh danh là Sāriputta vì là trưởng nam
của một trưởng tộc trong làng Upatissa, nên còn có tên gọi là Upatissa; con của bà
Moggallī thì có tên là Kolita vì là con trai đầu lòng của một thế gia chủ tể trong làng Kolita.
Khi trưởng thành, cả hai công tử đều tỏ ra rất xuất chúng trong mọi nghề nghiệp. Đi đâu cũng có kẻ đón người đưa, họ hưởng thụ mọi vinh hoa phú quý trên đời. Đến một ngày, khi nhân duyên đã tròn đủ, cả hai công tử đều không còn hứng thú với bất kỳ trò tiêu khiển thế gian nào nữa, bèn rủ nhau tìm vị đạo sư để xuất gia tầm đạo. Ngay lúc bấy giờ, có thầy Sañjaya là một giáo chủ ngoại đạo cùng với một số đông đệ tử du sĩ vào thành Rājagaha. Từ khi có hai công tử xuất gia, thầy Sañjaya càng được dồi dào lợi đắc và lừng lẫy thanh danh hơn bao giờ hết, nhưng chỉ trong vài ngày, hai trò mới đã học hết giáo lý của ông thầy. Khi biết vị đạo sư đã không còn gì để dạy mình nữa, hai vị đã từ giã vị thầy của mình. Tuy vậy, dù đã tìm hết cõi Diêm Phù Đề cũng không có vị thầy nào có thể trả lời các câu hỏi của hai vị đạo sĩ một cách dễ dàng. Cuối cùng, hai vị chia tay nhau mỗi người một ngã với lời hẹn ai tìm được minh sư trước thì hãy báo cho vị còn lại.
Một trong sáu mươi vị Thánh tăng được Thế Tôn lệnh cho đi vân du để hoằng dương chánh pháp là đại đức Assaji thuộc nhóm năm vị Kiều Trần Như. Đạo sĩ Sāriputta gặp được ngài Assaji khi ngài đang đi khất thực trong thành Rājagaha, liền nghĩ: "Từ trước đến giờ, ta chưa từng thấy một vị xuất gia nào phong độ như vị Sư nầy. Trong cõi trần ai ví như có ai đắc quả A La Hán hoặc đạt được A La Hán đạo, thì vị nầy phải là một trong số những thánh Tăng ấy chẳng sai. Ta hãy thử đến tiếp xúc hỏi thăm Ngài”. Đạo sĩ Upatissa đi theo và hầu ngài Assaji từ trên đường đi bát cho đến khi ngài thọ trai xong. Sau khi được thỉnh hỏi ai là vị đạo sư của ngài, tôn chỉ là gì, v.v… và xin được nghe pháp, đại đức Assaji đã nói 4 câu kệ:
“Ye dhammā hetuppabhavā, Yesaṃ hetuṃ tathāgato; Tesañca yo nirodho ca, Evaṃ vadī mahāsamaṇoti”. |
“Những pháp nào có nhân, Nhân pháp Đức Như Lai, Pháp với nhân nào diệt, Đức phật dạy không sai” |
Vừa nghe xong hai câu kệ đầu, du sĩ Sāriputta đã chứng quả Nhập Lưu. Khi chàng đắc Sơ quả rồi, Đại đức đọc tiếp hai câu sau và chấm dứt bài kệ. Nhưng vị Thánh Nhập Lưu mới nầy không chứng đắc những quả vị cao hơn. Khi biết được đức Thế Tôn đang ở Veḷuvana, du sĩ Upatissa gieo năm vóc xuống đất, nằm mọp bên chân Đại đức, đoạn đứng lên nhiễu quanh Đại đức ba vòng từ trái sang phải, giã từ đại đức và đi tìm bạn mình là Kolita. Khi thấy sắc diện tuyệt vời của bạn mình, du sĩ Kolita biết rằng bạn mình đã tìm ra đạo bất tử. Sau khi báo tin lành, Upatissa đọc luôn bài pháp kệ mình học được cho bạn nghe. Bài kệ vừa dứt, du sĩ Kolita cũng đắc Tu Đà Hườn.
(*) Giã từ vị thầy cũ Sañjaya:
Hai vị đạo sĩ quay về vị thầy cũ và báo rằng mình đã tìm được đạo bất tử và ngỏ ý muốn thầy Sañjaya cùng đi với mình nhưng du sĩ Sañjaya không đồng ý vì không có chuyện một người như ông ta lại làm đồ đệ của người khác.
-- “Nầy các hiền đồ, hiện tại trong đời nầy có nhiều kẻ ngu hay người trí?”
-- “Bạch Thầy, kẻ ngu nhiều, người trí thì hiếm.”
-- “Nếu vậy, nầy các hiền đồ, những người trí hãy đi nhập chung với những người trí là Sa môn Gotama, còn những kẻ ngu hãy ở lại đây, làm bạn với những kẻ ngu như ta. Các hiền đồ hãy đi đi, ta sẽ không đi đâu.”
Hai chàng vừa đi, giáo đoàn môn hạ của thầy Sañjaya cũng vừa tan rã, ngay từ lúc ấy cảnh chùa trở nên vắng vẻ, quạnh hiu, thấy chùa trống trơn không còn đệ tử, thầy ta giận ói máu tươi.
(*) Hai vị thượng thủ xuất hiện:
Đang ngồi thuyết pháp giữa Tứ chúng (Catuparisā), Đức Bổn Sư trông thấy hai chàng từ xa đi đến, từ đàng xa, Ngài gọi chư Tăng lại và giới thiệu trước rằng:
-- “Nầy các Tỳ khưu! Hai người bạn mới đến kia là Kolita và Upatissa. Họ sẽ là cặp Thinh Văn Thượng Thủ của Như Lai, một cặp Thượng thủ quý báu nhất (Aggabhaddayuga).”
Hai vị du sĩ được xuất gia với đức Thế Tôn bằng hình thức: “Etha bhikkhavoti (Thiện lai chư Tỳ khưu)”. Kim ngôn vừa dứt, do thần thông của Đức Thế Tôn, tất cả nhóm Tỳ khưu mới (một nửa đệ tử của đạo sĩ Sañjaya – 250 vị) nầy đều có đủ y bát, trang mạo giống như những vị Đại đức Tăng bằng trăm tuổi hạ. Sau bài pháp thoại, các vị Tỳ-khưu đều đắc quả A-la-hán trừ hai vị thượng thủ [?].
(*) Hai vị thượng thủ chứng Thánh quả:
Riêng về Đại đức Moggallāna, từ ngày xuất gia đầu Phật, đến nương ngụ gần thôn Kallavāla, trong xứ Māgadha, hành thiền được bảy hôm, kế bị hôn trầm dã dượi. Nhờ Đức Bổn Sư thức tỉnh, Đại đức phát tâm kinh sợ thắng phục được hôn trầm, tinh tấm niệm đề mục Tứ đại (Dhātu kammaṭṭhāna), ngài chứng quả vị tối thượng.
Đại đức Sāriputta sau ngày xuất gia vẫn còn ở trong thành Rājagaha với Đức Bổn Sư, nương nhờ trong một hang đá Trư Quật, tục gọi là hang heo đào (Sākarakhātalena). Mãi đến nữa tháng sau, Đại đức nghe Đức Phật thuyết bài kinh Vedanā pariggaha sutta (Đa Thọ Học) để hóa độ du sĩ Dīghanakha là cháu kêu Đại đức bằng cậu (MN 74 Dīghanakha Sutta), ngài chứng quả vị A-la-hán.
(*) Chư Tăng không đồng tình về danh xưng thượng thủ thanh văn của 2 đại đức trẻ:
Chư Tỳ khưu thì thầm dị nghị rằng: “Đức Tôn Sư chỉ coi mặt (mukhalokanena) mà ân tứ cho các Tỳ khưu, hai chức Thượng thủ Thinh Văn đáng lẽ Ngài nên phong cho những đồ đệ đầu tiên là năm vị trong nhóm Kiều Trần Như (Pañca vagga) mới phải. Đức Thế Tôn giải thích cái đó không phải thiên vị mà bởi vì công hạnh của mỗi vị, ngài Aññā-Kondañña không nguyện làm thượng thủ thinh văn mà nguyện làm vị thinh văn đầu tiên của Đức Phật từ thời Phật Vipassī 91 đại kiếp về trước (cúng dường lúa sālī non – lúa đòng đòng đến Đức Phật và chư Tăng). Còn trong thời kì Đức Phật Padumuttara, cách nay một trăm ngàn đại kiếp. Khi ở trong thành Haṃsavatī (Thiên Nga), ông có cúng dường trọng thể (Mahādāna) trong bảy ngày đêm liên tiếp, rồi mọp bên chân Đức Thế Tôn thời ấy, nguyện cầu đắc pháp thù thắng trước hết thảy mọi người.
(*) Đức Thế Tôn kể về nhân duyên quá khứ của chư A-la-hán
-- Duyên quá khứ của đại đức Yassa và 54 công tử bạn:
Một kiếp quá khứ, Yassa và 54 người bạn phát tâm làm công việc tống chung những xác chết bần tiện, cô đơn. Hôm họ, họ hỏa táng cho một người phụ nữ có mang. Năm người được chỉ thị ở lại mộ địa, kỳ dư bao nhiêu đều trở về làng. Thanh niên Yasa đứng chỉ huy việc thiêu này, chàng dùng cây nhọn đâm lưng cái xác cho chảy bớt nước và lật qua lật lại cho mau cháy. Chăm chỉ nhìn cây đuốc thịt đang biến thành than, chàng bỗng đâm ra nhờm gớm cái tử thi một cách lạ thường, đó là triệu chứng trong tâm chàng phát sanh bất tịnh tưởng (Asubhasaññā). Yasa kêu bốn chàng kia lại chỉ: “Quý vị ơi! Hãy nhìn cho kỹ xác chết nầy, da của nó nứt nẻ loang lổ từng đốm giống hệt như miếng da bò, thật là bẩn thỉu, hôi tanh, đáng tởm làm sao?”.
Xong phận sự đốt thây ma, năm chàng trở về làng kể chuyện vừa qua với các bạn kia. Chàng Yasa thuật lại chuyện ấy trong gia đình chàng nghe, nên cha mẹ chàng cũng phát sinh bất tịnh tưởng (Asubhasaññā). chính do nhân ấy mà đang ở trong lâu đài, nhìn những mỹ nữ ngủ, Yasa có cái cảm giác như đang ở trong mộ địa với những thây ma và cũng nhờ tích lũy những nghiệp lành trong những kiếp đã qua, nên kiếp nầy tất cả những người trong nhóm mới đắc chứng những quả đặc thù (Vivesadhigama) là A La Hán quả.
-- Duyên quá khứ của nhóm quý tộc Bhadda:
Các công tử ấy cũng đã cúc cung đối với Đức Phật quá khứ,
phát nguyện thành A La Hán và đã làm nhiều chuyện phước đức. Tiếp theo đó, trong thời Đức Phật chưa giáng thế, họ đầu thai làm ba mươi tên lưu manh lãng tử, nhờ nghe huấn từ của Đức Thế Tôn ban cho ông Tuṇḍīla mà cải tà quy chánh, thọ trì ngũ giới được sáu muôn năm.
-- Duyên quá khứ của nhóm đạo sĩ Uruvelakassapa:
+ 3 vị Kassapa là 3 hoàng tử em của Phật Pussa trong kiếp quá khứ:
Cách đây 92 đại kiếp có Phật Tissa và Pussa. Đức Phật Pussa vốn là vị đông cung Thái tử, con đức vua Mahinda (Đại Đế). Sau khi Ngài đắc quả Chánh Biến Tri thì có Thượng thủ Thinh Văn là Hoàng tử út, em Ngài, Đệ nhị Thinh Văn là vị công tử con quan Lễ bộ Thượng thư đương triều. Tuổi đã già, đức vua thỉnh Đức Phật đừng đi bát nhà ai nữa mà chỉ nhận đồ cúng dường của một mình mình và đã được Đức Phật đồng ý. Ngoài hai người con trai xuất gia, đức vua còn có 3 hoàng tử nữa. Sau khi lập chiến công hiển hách trở về cùng với sự cầu xin tha thiết, cuối cùng 3 hoàng tử được vua cha cho phép hộ độ đức Thế Tôn trong 3 tháng. Trong 3 tháng đó, cả 3 hoàng tử dắt theo cả ngàn tùy tướng thân tín đều mặc y, thọ trì 10 giới và tu học với đức Thế Tôn. Hai quan quản khố và thiện tế hợp chung nhau, luân phiên lo liệu việc cúng dường, mỗi ngày đều cho người vào kho của ba Hoàng tử, xuất ra đủ thứ thực phẩm cứng và mềm, sắp đặt xong rồi cho làm lễ Trai Tăng.
+ Các ngạ quỷ quyến thuộc của vua Bimbisāra:
Trong khi các đầu bếp nấu cơm, cháo vật thực dọn ra thì lũ con nhỏ của họ la khóc đòi ăn. Hai quan Tổng quản thấy vậy lấy món ăn chúng đòi ăn đưa cho chúng ăn trước khi chư Tăng ngự tới. Vì thế, chư Tăng chỉ thọ thực một bữa thừa, không đầy đủ nguyên vẹn như khi mới dọn. Lần lần về sau, hai quan Tổng quản trông thấy thực phẩm mới dọn, cũng sanh thèm, nhịn không được, giả bộ nói: “Ta hãy đem cho lũ trẻ”, rồi lấy đem đi ăn vụng. Cả đám từ nhỏ đến lớn có tám muôn bốn ngàn vị phạm tội ăn bớt thực phẩm mà họ có phận sự cúng dường Đại Đức Tăng, sau khi tan rã thân xác, đều bị sanh đọa vào cõi ngạ quỷ (Petti visaya).
Ba anh em Hoàng tử với một ngàn thuộc hạ, sau khi từ giã cõi đời, được siêu sanh lên Thiên giới, rồi luân hồi chuyển kiếp, khi thì ở cõi trời, khi thì ở cõi người. Trải qua chín mươi hai đại kiếp mới đến ngày nay. Quan thiện tế của ba vị Hoàng tử nay là vua Bimbisāra, còn quan quản khố nay là cận sự nam Visākha. Những người phụ tá của họ, khi ấy sau khi chết bị đọa sanh vào cõi ngạ quỷ (ma đói), rồi chuyển kiếp, khi làm người, khi làm chư Thiên, khi ở khổ cảnh địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, Asura. Họ sống trong cảnh giới ngạ quỷ như vậy suốt 4 đời chư Phật. Họ đã đến gặp Đức Phật Kakusandha là vị Chánh Đẳng Giác đầu tiên xuất hiện trong hiền kiếp nầy, Ngài có tuổi thọ là bốn muôn năm … Họ đã đến gặp Đức Phật Kakusandha .. Phật Konāgamana … Phật Kassapa để hỏi bao giờ mới thoát khỏi khổ cảnh.
--“Trong thời của Như Lai các người cũng chưa có gì ăn được. Sau nầy khi địa đại cao thêm một do tuần, chừng ấy Đức Phật có hồng danh Gotama sẽ giáng lâm, thân nhân của các ngươi là đức vua Bimbisāra sẽ cúng dường đến Đức Thế Tôn và hồi hướng phước báu đến cho các ngươi, chừng ấy các ngươi sẽ có được thức ăn”.
Khi Đức Như Lai xuất thế vua Bimbisāra cúng dường Trai Tăng bữa đầu, chúng ngạ quỷ không thọ hưởng được quả báu (vì thí chủ không hồi hướng đến), chúng đợi tới khuya về báo mộng cho đức vua ngó thấy và rú lên những tiếng rùng rợn. Được sự chỉ dạy của đức Thế Tôn, đức vua lại thỉnh Tỳ khưu Tăng có Đức Phật làm hội chủ đến thọ thực. Sau bữa Trai Tăng trọng thể (mahādāna), đức vua hồi hướng phước báu rằng: “Bạch Ngài! Do sự phước thí nầy xin cho những vong linh quyến thuộc của trẫm có đầy đủ cơm nước của hàng chư Thiên”.
Ngay lúc ấy, các ngạ quỷ đều thoát khỏi sự đói khát nhờ thọ hưởng được phước hồi hướng. Nhưng đến hôm sau chúng lại hiện cho đức vua thấy thân chúng lõa lồ. Được đức Thế Tôn chỉ dạy, hôm sau Đức vua cúng dường y và vải cho chư Tăng có Đức Phật là hội chủ và nguyện rằng: “Do phước nầy, xin cho các vong linh quyến thuộc của trẫm được mặc y phục của hàng chư Thiên”. Ngay lúc ấy, những y phục chư thiên tạo phát sanh đầy đủ sẵn đến các vong linh lõa thể, cởi lớp ngạ quỷ, họ trở thành những chư thiên có hình thái xinh đẹp sáng chói.
(*) Duyên quá khứ của hai vị thượng thủ:
Cách đây 1 Asaṅkheyya và 100 ngàn đại kiếp về trước, Sāriputta sanh ra trong một gia đình đại phú thuộc giai cấp Bà la môn quý danh là công tử Sārada (Kim Thu), còn Moggallāna sanh trong một vọng tộc đại gia, có tên là Sirivaḍḍhana (Tân Lợi), cả hai thân thiết nhau từ thuở nhỏ.
Chán đời gia chủ, công tử Sārada rủ bạn mình là Sirivaḍḍhana xuất gia nhưng bạn không đồng ý nên sau khi bố thí hết gia sản, đã xuất gia tu học và có bảy muôn bốn ngàn người theo hầu. Đạo sĩ Sārada hành đắc chứng được Ngũ thông, Bát thiền bèn đem cách niệm đề mục thiền tịnh (kasiṇ parikamma) chỉ dạy cho các đạo sĩ tóc bện đệ tử, nhờ vậy tất cả đều đắc Ngũ thông, Bát thiền như nhau.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Anomadassī giáng lâm nơi thành Buddhamatī. Biết được nhân duyên sâu này của đạo sĩ Sādara, đức Thế Tôn đã ngự đến và được đạo sĩ cùng hàng đệ tử hầu hạ hết mực tôn kính (vì ngài Sārada với trí tuệ biết được đây chính là một vị đã hoàn toàn giác ngộ). Lúc ấy, đức Thế Tôn nguyện thầm cho gọi hai vị đệ tử thượng thủ là Tỳ khưu Nisabha (Trác Lạc) và Anoma (Vô Thượng) và chúng Tăng hãy đến đây. Khi Đức Phật đã ngự trên bảo tọa được chuẩn bị sẵn, hai vị thượng thủ thinh văn cũng ngự hai bên. Khi đã chúc phúc cho các đạo sĩ xong, đức Thế Tôn và chư Tăng cùng nhập Diệt Thọ Tưởng Định và ngồi nguyên trong tư thế như vậy 7 ngày liền. Các đạo sĩ đều hầu Phật ngoại trừ giờ khất thực, còn một mình đạo sĩ Sārada không đi kiếm ăn, đạo sĩ đứng yên, tay cầm lộng hoa suốt bảy ngày liền, trong lòng tràn ngập một niềm vui phơi phới (pīti). Đức Thế Tôn lệnh cho hai vị thượng thủ cùng chúc phúc và thuyết pháp, tuy vậy trong hội chúng đạo sĩ bấy giờ không ai chứng được đạo quả gì. Khi ấy, Đức Bổn Sư trụ tâm vào Vô Biên Phật Cảnh Trí (Aparimāṇa buddhavisaya) rồi thuyết ra một thời pháp. Thời pháp dứt, trừ đạo sĩ Sārada, tất cả bảy muôn bốn ngàn đạo sĩ tóc bính đều đắc quả A La Hán. Các đạo sĩ ấy bèn xin xuất gia với Đức Tôn Sư. Đức Phật cho họ xuất gia theo lối thiện lai Tỳ-khưu, tức thì râu tóc của họ đều biến mất và họ có tám món phụ dính liền theo thân là ba y, bát, dây lưng, ống đựng kim, ống lược nước, dao cạo. Về phần đạo sĩ Sārada, do quá hoan hỷ với vị thượng thủ thinh văn thuyết pháp, đâm ra mơ ước: “Ôi! Phải chi mình được lãnh nhiệm vụ của vị Đại đệ tử nầy trong Giáo pháp của một vị Phật vị lai”. Vì mãi bận tâm lo nghĩ như vậy nên đạo sĩ không đắc quả chi hết.
-- Bạch Ngài! Chẳng hay trong giáo pháp của Ngài vị Tỳ khưu ngồi sát bên cánh tay phải của Ngài mệnh danh là gì?”
-- Tỳ khưu nào theo phụ lực với Như Lai, quay chuyển bánh xe pháp, đã đạt tới mức thượng đỉnh của Thinh Văn Siêu Việt Trí (Sāvakapārāmi ñāṇassakoṭippatto), đã hiểu biết mười sáu vấn đề (Solasapaññā) (tức là mười sáu lý của Tứ Diệu Đế - xem Kho Tàng Pháp Bảo) Tỳ khưu ấy mệnh danh là Thủ Thinh Văn (Aggasāvaka) trong Giáo Pháp của Như Lai.
Rồi đạo sĩ Sārada nguyện rằng với phước báu cầm lọng che cho đức Thế Tôn 7 ngày, nguyện tương lai sẽ được làm vị thượng thủ thanh văn của một Đức Phật như đại đức Nisabha hôm nay vậy. Sau khi đã dùng Phật nhãn quán chiếu, đức Thế Tôn thọ kí rằng: sau một A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp nữa vị Phật danh hiệu là Gotama sẽ giáng thế, thân mẫu Ngài là Mahāmāyā, thân phụ Ngài là Suddhodana, thái tử Ngài là Rāhula, thị giả Ngài tên Ānanda, đệ nhị Thinh Văn Ngài là Moggallāna, ngươi sẽ là vị Thủ thinh Văn của Ngài, là vị Tướng quân chánh pháp (Dhammasenāpati) tên là Sāriputta. Thọ ký cho đạo sĩ rồi, Đức Phật thuyết pháp phủ dụ, đoạn Ngài cùng tất cả Thánh Tăng đằng vân bay đi.
Đạo sĩ Sārada tìm đến người bạn thân của mình và kể lại mọi chuyện. Trưởng giả Sirivaḍḍhana làm cuộc đại cúng dường đến đức Thế Tôn và Tăng đoàn trong 7 ngày liên tiếp rồi phát nguyện: -- “Bạch Ngài! Bạn của tôi là đạo sĩ Sārada đã nguyện làm Thủ Thỉnh Văn của Đức Phật nào, thì tôi cũng nguyện xin là đệ nhị Thinh Văn của Đức Phật ấy.” Đức Thế Tôn thọ kí: -- “Từ đây về sau một A tăng kỳ và một trăm ngàn đại kiếp nữa, người sẽ là đệ nhị Thinh Văn của Đức Phật Gotama”.
(*) Đức Thế Tôn Gotama thuyết bài kệ pháp cú liên quan đến đạo sĩ Sañjaya:
Hai vị thượng thủ kể lại mọi việc từ thuở thiếu niên cho đến khi học hết giáo pháp của đạo sĩ Sañjaya và sự ngoan cố của vị thầy cũ. Đức Bổn Sư dạy rằng: “Nầy các Tỳ khưu! Thầy Sāñjaya tự mình mang nặng tà kiến việc không cần cho là cần, việc cần cho là không cần. Còn các Tỳ khưu, tự nghĩ mình là bậc hiền trí việc cần biết là cần, việc không cần biết là không cần. Nhờ vậy mới dứt bỏ được việc không cần yếu mà kiên trì lấy việc cần yếu”. Nói rồi, Đức Phật thuyết bài kệ:
“Asāre sāramatino, Sāre cāsāradassino; Te sāraṃ nādhigacchanti, Micchāsaṅkappagocarā”.
|
“Sārañ ca sārato ñatvā, Asārañ ca asārato; Te sāraṃ adhigacchanti, Sammasaṅkappagocarāti”. |