MN 4: Bhayabheravasutta – Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm – Fear and Dread

Friday April 28, 2023
Majjhima Nikāya 4 Trung Bộ Kinh Middle Length Discourses
Bhayabheravasutta Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm Fear and Dread
Evaṃ me sutaṃ—​   ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anātha­piṇḍi­kassa ārāme. Atha kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho jāṇussoṇi brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca: 

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Bà-la-môn Jānussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jānussoni bạch Thế Tôn:

Thus have I heard. On one occasion the Blessed One was living at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. Then the brahmin Jāṇussoṇi went to the Blessed One and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said:

 

“yeme, bho gotama, kulaputtā bhavantaṃ gotamaṃ uddissa saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, bhavaṃ tesaṃ gotamo pubbaṅgamo, bhavaṃ tesaṃ gotamo bahukāro, bhavaṃ tesaṃ gotamo samādapetā; bhoto ca pana gotamassa sā janatā diṭṭhānugatiṃ āpajjatī”ti.

 

Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Tôn giả Gotama.

Master Gotama, when clansmen have gone forth from the home life into homelessness out of faith in Master Gotama, do they have Master Gotama for their leader, their helper, and their guide? And do these people follow the example of Master Gotama?

 

Evametaṃ, brāhmaṇa, evametaṃ, brāhmaṇa. Ye te, brāhmaṇa, kulaputtā mamaṃ uddissa saddhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā, ahaṃ tesaṃ pubbaṅgamo, ahaṃ tesaṃ bahukāro, ahaṃ tesaṃ samādapetā; mama ca pana sā janatā diṭṭhānugatiṃ āpajjatī”ti. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của họ. Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Ta.

That is so, brahmin, that is so. When clansmen have gone forth from the home life into homelessness out of faith in me, they have me for their leader, their helper, and their guide. And these people follow my example.

 

Dura­bhi­sam­bha­vāni hi kho, bho gotama, arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ, durabhiramaṃ ekatte, haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhuno”ti. Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định. But, Master Gotama, remote jungle-thicket resting places in the forest are hard to endure, seclusion is hard to practise, and it is hard to enjoy solitude. One would think the jungles must rob a bhikkhu of his mind, if he has no concentration.
Evametaṃ, brāhmaṇa, evametaṃ, brāhmaṇa. Dura­bhi­sam­bha­vāni hi kho, brāhmaṇa, arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ, durabhiramaṃ ekatte, haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhuno. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định. That is so, brahmin, that is so. Remote jungle-thicket resting places in the forest are hard to endure, seclusion is hard to practise, and it is hard to enjoy solitude. One would think the jungles must rob a bhikkhu of his mind, if he has no concentration.
Mayhampi kho, brāhmaṇa, pubbeva sambodhā ana­bhisam­buddhassa bodhi­sattas­seva sato etadahosi: ‘dura­bhi­sam­bha­vāni hi kho arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni, dukkaraṃ pavivekaṃ, durabhiramaṃ ekatte, haranti maññe mano vanāni samādhiṃ alabhamānassa bhikkhuno’ti. Này Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: “Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định! Before my enlightenment, while I was still only an unenlightened Bodhisatta, I too considered thus: ‘Remote jungle-thicket resting places in the forest are hard to endure, seclusion is hard to practise, and it is hard to enjoy solitude. One would thinkthe jungles must rob a bhikkhu of his mind, if he has no concentration.
Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā apari­suddha­kāya­kammantā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, apari­suddha­kāya­kamman­tasan­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ apari­suddha­kāya­kammanto arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; pari­suddha­kāya­kamman­to­hamasmi. Ye hi vo ariyā pari­suddha­kāya­kammantā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, pari­suddha­kāya­kamma­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.  Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

I considered thus: ‘Whenever recluses or brahmins unpurified in bodily conduct resort to remote jungle-thicket resting places in the forest, then owing to the defect of their unpurified bodily conduct these good recluses and brahmins evoke unwholesome fear and dread. But I do not resort to remote jungle-thicket resting places in the forest unpurified in bodily conduct. I am purified in bodily conduct. I resort to remote jungle-thicket resting places in the forest as one of the noble ones with bodily conduct purified.’ Seeing in myself this purity of bodily conduct, I found great solace in dwelling in the forest.

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā apari­suddha­vacī­kammantā … pe … apari­suddha­manokam­mantā … pe … apari­suddhā­jīvā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, apari­suddhā­jīva­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ apari­suddhā­jīvo arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; pari­suddhā­jīvo­hamasmi. Ye hi vo ariyā parisuddhājīvā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, pari­suddhā­jīva­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya. 

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp không thanh tịnh … (như trên) … có ý nghiệp không thanh tịnh … (như trên) … có mạng sống không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước mạng sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. I considered thus: ‘Whenever recluses or brahmins unpurified in verbal conduct…unpurified in mental conduct…unpurified in livelihood resort to remote jungle-thicket resting places in the forest, then owing to the defect of their unpurified bodily conduct these good recluses and brahmins evoke unwholesome fear and dread. But I do not resort to remote jungle-thicket resting places in the forest unpurified in verbal conduct…mental conduct… in livelihood. I am purified in verbal conduct… mental conduct …in livelihood. I resort to remote jungle-thicket resting places in the forest as one of the noble ones with verbal conduct … mental conduct … livelihood purified.’ Seeing in myself this purity of verbal conduct… mental conduct … livelihood, I found great solace in dwelling in the forest.
Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā abhijjhālū kāmesu tibbasārāgā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, abhij­jhā­lu­kāme­sutib­ba­sārāga­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ abhijjhālu kāmesu tibbasārāgo arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; ana­bhij­jhā­lū­hamasmi. Ye hi vo ariyā anabhijjhālū arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, ana­bhij­jhā­lu­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục, có ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có tham dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

I considered thus: ‘Whenever recluses or brahmins who are covetous and full of lust…I am uncovetous…

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā byāpannacittā ­paduṭ­ṭha­manasaṅ­kappā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, ­byāpan­na­citta­paduṭ­ṭha­mana­saṅkap­pa­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ byāpannacitto ­paduṭ­ṭha­manasaṅ­kappo arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; metta­citto­hamasmi. Ye hi vo ariyā mettacittā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, mettacittataṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.  Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta có từ tâm như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…with a mind of ill will and intentions of hate…I have a mind of loving-kindness…

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā thina­middha­pari­yuṭ­ṭhitā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, thina­middha­pari­yuṭ­ṭhā­na­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ thina­middha­pari­yuṭ­ṭhito arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; vigata­thina­middho­hamasmi. Ye hi vo ariyā vigata­thina­middhā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, vigata­thina­middha­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không có hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…overcome by sloth and torpor…I am without sloth and torpor…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā uddhatā avū­pasan­ta­cittā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, uddha­ta­a­vū­pasan­ta­citta­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ uddhato avū­pasan­ta­citto arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; vūpasan­ta­citto­hamasmi. Ye hi vo ariyā vūpasantacittā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, vūpasan­ta­citta­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động, tâm không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…overcome with restlessness and unpeaceful in mind…I have a peaceful mind…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kaṅkhī vicikicchī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, kaṅ­khi­vici­kicchi­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ kaṅkhī vicikicchī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; tiṇ­ṇavici­kiccho­hamasmi. Ye hi vo ariyā tiṇ­ṇavici­kicchā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, tiṇṇa­vici­kiccha­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi hoặc, do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…uncertain and doubting…I have gone beyond doubt…

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā attukkaṃsakā paravambhī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, attukkaṃ­sa­na­paravam­bhana­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ attukkaṃsako paravambhī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; anattukkaṃsako apara­vambhī­hamasmi. Ye hi vo ariyā anattukkaṃsakā aparavambhī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, anat­tukkaṃ­sa­ka­taṃ aparavambhitaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.  Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một trong những bậc Thánh không có khen mình, không có chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…given to self-praise and disparagement of others…I am not given to self-praise and disparagement of others…

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā chambhī bhīrukajātikā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, cham­bhi­bhīru­ka­jātika­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ chambhī bhīrukajātiko arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; vigata­loma­haṃso­hamasmi. Ye hi vo ariyā vigata­loma­haṃsā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, vigata­loma­haṃsa­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ hãi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có run rẩy, sợ hãi, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc dựng ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng ngược như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…subject to alarm and terror…I am free from trepidation…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā lābhasakkā­ra­silokaṃ nikāmayamānā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, lābhasakkā­ra­siloka­ni­kāma­na­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ lābhasakkā­ra­silokaṃ nikāmayamāno arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; appic­cho­hamasmi. Ye hi vo ariyā appicchā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, appicchataṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya. 

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một trong những bậc Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…desirous of gain, honour, and renown…I have few wishes…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā kusītā hīnavīriyā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, kusīta­hīna­vīriya­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ kusīto hīnavīriyo arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; ārad­dha­vīri­yo­hamasmi. Ye hi vo ariyā āraddhavīriyā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, ārad­dha­vīriya­taṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước biếng nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…lazy and wanting in energy…I am energetic…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā muṭṭhassatī asampajānā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, muṭṭhas­sati­a­sam­pajā­na­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ muṭṭhassati asampajāno arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; upaṭṭhi­tas­sa­tiha­masmi. Ye hi vo ariyā upaṭṭhitassatī arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, upaṭṭhi­tas­satitaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.

 

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

 unmindful and not fully aware…I am established in mindfulness…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā asamāhitā vibbhantacittā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, asamā­hita­vib­bhan­ta­citta­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ asamāhito vibbhantacitto arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; samā­dhi­sampan­no­hamasmi. Ye hi vo ariyā samā­dhi­sam­pannā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, samā­dhi­sam­padaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.  Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu định tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu định tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

…unconcentrated and with straying minds…I am possessed of concentration…

 

 

 

 

 

 

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘ye kho keci samaṇā vā brāhmaṇā vā duppaññā eḷamūgā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti, dup­pañña­eḷa­mūga­san­dosa­hetu have te bhonto samaṇabrāhmaṇā akusalaṃ bhayabheravaṃ avhāyanti. Na kho panāhaṃ duppañño eḷamūgo arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi; paññā­sam­pan­no­hamasmi. Ye hi vo ariyā paññāsampannā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevanti tesamahaṃ aññataro’ti. Etamahaṃ, brāhmaṇa, paññāsampadaṃ attani sampassamāno bhiyyo pallomamāpādiṃ araññe vihārāya.  Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước liệt tuệ, đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi. I considered thus: ‘Whenever recluses or brahmins devoid of wisdom, drivellers, resort to remote jungle-thicket resting places in the forest, then owing to the defect of their being devoid of wisdom and drivellers these good recluses and brahmins evoke unwholesome fear and dread. But I do not resort to remote jungle-thicket resting places in the forest devoid of wisdom, a driveller. I am possessed of wisdom. I resort to remote jungle-thicket resting places in the forest as one of the noble ones possessed of wisdom.’ Seeing in myself this possession of wisdom, I found great solace in dwelling in the forest.
Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘yannūnāhaṃ yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā—cātuddasī pañcadasī aṭṭhamī ca pakkhassa—tathārūpāsu rattīsu yāni tāni ārāmacetiyāni vanacetiyāni rukkhacetiyāni bhiṃsanakāni salomahaṃsāni tathārūpesu senāsanesu vihareyyaṃ appeva nāmāhaṃ bhayabheravaṃ passeyyan’ti. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, aparena samayena yā tā rattiyo abhiññātā abhilakkhitā—cātuddasī pañcadasī aṭṭhamī ca pakkhassa—tathārūpāsu rattīsu yāni tāni ārāmacetiyāni vanacetiyāni rukkhacetiyāni bhiṃsanakāni salomahaṃsāni tathārūpesu senāsanesu viharāmi. Tattha ca me, brāhmaṇa, viharato mago vā āgacchati, moro vā kaṭṭhaṃ pāteti, vāto vā paṇṇakasaṭaṃ ereti; tassa mayhaṃ brāhmaṇa etadahosi: ‘etaṃ nūna taṃ bhayabheravaṃ āgacchatī’ti. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, etadahosi: ‘kiṃ nu kho ahaṃ aññadatthu bhaya­paṭikaṅ­khī viharāmi? Yannūnāhaṃ yathābhūtaṃ yathābhūtassa me taṃ bhayabheravaṃ āgacchati, tathābhūtaṃ tathābhūtova taṃ bhayabheravaṃ paṭivineyyan’ti. Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: “Trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy”. Này Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: “Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!”. Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: “Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy”.

I considered thus: ‘There are the specially auspicious nights of the fourteenth, the fifteenth, and the eighth of the fortnight. Now what if, on such nights as these, I were to dwell in such awe-inspiring, horrifying abodes as orchard shrines, woodland shrines, and tree shrines? Perhaps I might encounter that fear and dread.’ And later, on such specially auspicious nights as the fourteenth, the fifteenth, and the eighth of the fortnight, I dwelt in such awe-inspiring, horrifying abodes as orchard shrines, woodland shrines, and tree shrines. And while I dwelt there, a wild animal would come up to me, or a peacock would knock off a branch, or the wind would rustle the leaves. I thought: ‘What now if this is the fear and dread coming?’ I thought: ‘Why do I dwell always expecting fear and dread? What if I subdue that fear and dread while keeping the same posture that I am in when it comes upon me?’

 

 

Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, caṅkamantassa taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva tiṭṭhāmi na nisīdāmi na nipajjāmi, yāva caṅkamantova taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, ṭhitassa taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva caṅkamāmi na nisīdāmi na nipajjāmi. Yāva ṭhitova taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, nisinnassa taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva nipajjāmi na tiṭṭhāmi na caṅkamāmi, yāva nisinnova taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Tassa mayhaṃ, brāhmaṇa, nipannassa taṃ bhayabheravaṃ āgacchati. So kho ahaṃ, brāhmaṇa, neva tāva nisīdāmi na tiṭṭhāmi na caṅkamāmi, yāva nipannova taṃ bhayabheravaṃ paṭivinemi. Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.

While I walked, the fear and dread came upon me; I neither stood nor sat nor lay down till I had subdued that fear and dread. While I stood, the fear and dread came upon me; I neither walked nor sat nor lay down till I had subdued that fear and dread. While I sat, the fear and dread came upon me; I neither walked nor stood nor lay down till I had subdued that fear and dread. While I lay down, the fear and dread came upon me; I neither walked nor stood nor sat down till I had subdued that fear and dread.

 

 

 

 

Santi kho pana, brāhmaṇa, eke samaṇabrāhmaṇā rattiṃyeva samānaṃ divāti sañjānanti, divāyeva samānaṃ rattīti sañjānanti. Idamahaṃ tesaṃ samaṇab­rāhma­ṇā­naṃ sam­moha­vihāras­miṃ vadāmi. Ahaṃ kho pana, brāhmaṇa, rattiṃyeva samānaṃ rattīti sañjānāmi, divāyeva samānaṃ divāti sañjānāmi. Yaṃ kho taṃ, brāhmaṇa, sammā vadamāno vadeyya: ‘asammohadhammo satto loke uppanno bahujanahitāya bahu­jana­su­khāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti, mameva taṃ sammā vadamāno vadeyya: ‘asammohadhammo satto loke uppanno bahujanahitāya bahu­jana­su­khāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānan’ti. Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: “Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: “Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”.

There are, brahmin, some recluses and brahmins who perceive day when it is night and night when it is day. I say that on their part this is an abiding in delusion. But I perceive night when it is night and day when it is day. Rightly speaking, were it to be said of anyone: ‘A being not subject to delusion has appeared in the world for the welfare and happiness of many, out of compassion for the world, for the good, welfare, and happiness of gods and humans,’ it is of me indeed that rightly speaking this should be said.

 

 

Āraddhaṃ kho pana me, brāhmaṇa, vīriyaṃ ahosi asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ. Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được khinh an, không có dao động, tâm được định tĩnh, chuyên nhất. “Tireless energy was aroused in me and unremitting mindfulness was established, my body was tranquil and untroubled, my mind concentrated and unified.
So kho ahaṃ, brāhmaṇa, vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Này Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. “Quite secluded from sensual pleasures, secluded from unwholesome states, I entered upon and abided in the first jhāna, which is accompanied by applied and sustained thought, with rapture and pleasure born of seclusion.
Vitak­ka­vicārā­naṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ. Diệt tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. “With the stilling of applied and sustained thought, I entered upon and abided in the second jhāna, which has self-confidence and singleness of mind without applied and sustained thought, with rapture and pleasure born of concentration.

Pītiyā ca virāgā upekkhako ca vihāsiṃ, sato ca sampajāno sukhañca kāyena paṭisaṃvedesiṃ; yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti: ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.

 

Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba.

 

 

“With the fading away as well of rapture, I abided in equanimity, and mindful and fully aware, still feeling pleasure with the body, I entered upon and abided in the third jhāna, on account of which noble ones announce: ‘He has a pleasant abiding who has equanimity and is mindful.’

Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanas­sa­do­manas­sā­naṃ atthaṅgamā aduk­kha­ma­su­khaṃ upekkhā­sati­pāri­suddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja vihāsiṃ.

 

Xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

“With the abandoning of pleasure and pain, and with the previous disappearance of joy and grief, I entered upon and abided in the fourth jhāna, which has neither-pain-nor-pleasure and purity of mindfulness due to equanimity.

So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe viga­tū­pak­kilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbe­nivāsā­nus­sati­ñāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi, seyyathidaṃ—ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jāti­sata­sahas­sampi anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃ­vaṭṭa­vi­vaṭṭa­kappe: ‘amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṅgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsu­kha­duk­khap­paṭi­saṃ­vedī evamā­yu­pariyanto, so tato cuto amutra udapādiṃ; tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṅgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsu­kha­duk­khap­paṭi­saṃ­vedī evamā­yu­pariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarāmi. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā paṭhame yāme paṭhamā vijjā adhigatā, avijjā vihatā vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.

 

 

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở đây”. Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

 

 

When my concentrated mind was thus purified, bright, unblemished, rid of imperfection, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, I directed it to knowledge of the recollection of past lives. I recollected my manifold past lives, that is, one birth, two births, three births, four births, five births, ten births, twenty births, thirty births, forty births, fifty births, a hundred births, a thousand births, a hundred thousand births, many aeons of world-contraction, many aeons of world-expansion, many aeons of world-contraction and expansion: ‘There I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my nutriment, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; and passing away from there, I reappeared elsewhere; and there too I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my nutriment, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; and passing away from there, I reappeared here.’ Thus with their aspects and particulars I recollected my manifold past lives. This was the first true knowledge attained by me in the first watch of the night. Ignorance was banished and true knowledge arose, darkness was banished and light arose, as happens in one who abides diligent, ardent, and resolute.

So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe viga­tū­pak­kilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutū­papāta­ñā­ṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So dibbena cakkhunā visuddhena atik­kanta­mānusa­kena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi: ‘ime vata bhonto sattā kāya­ducca­ritena samannāgatā vacī­ducca­ritena samannāgatā mano­ducca­ritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchā­diṭṭhi­kamma­sa­mādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime vā pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammā­diṭṭhi­kam­masamā­dānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atik­kanta­mānusa­kena satte passāmi cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathākammūpage satte pajānāmi. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā majjhime yāme dutiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.

 

 

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

 

 

When my concentrated mind was thus purified, bright, unblemished, rid of imperfection, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, I directed it to knowledge of the passing away and reappearance of beings. With the divine eye, which is purified and surpasses the human, I saw beings passing away and reappearing, inferior and superior, fair and ugly, fortunate and unfortunate. I understood how beings pass on according to their actions thus: ‘These worthy beings who were ill conducted in body, speech, and mind, revilers of noble ones, wrong in their views, giving effect to wrong view in their actions, on the dissolution of the body, after death, have reappeared in a state of deprivation, in a bad destination, in perdition, even in hell; but these worthy beings who were well conducted in body, speech, and mind, not revilers of noble ones, right in their views, giving effect to right view in their actions, on the dissolution of the body, after death, have reappeared in a good destination, even in the heavenly world.’ Thus with the divine eye, which is purified and surpasses the human, I saw beings passing away and reappearing, inferior and superior, fair and ugly, fortunate and unfortunate, and I understood how beings pass on according to their actions. This was the second true knowledge attained by me in the middle watch of the night. Ignorance was banished and true knowledge arose, darkness was banished and light arose, as happens in one who abides diligent, ardent, and resolute.

So evaṃ samāhite citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe viga­tū­pak­kilese mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ abhininnāmesiṃ. So ‘idaṃ dukkhan’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ duk­kha­nirodha­gāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. ‘Ime āsavā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsavasamudayo’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsavanirodho’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ, ‘ayaṃ āsava­nirodha­gāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ abbhaññāsiṃ. Tassa me evaṃ jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ vimuccittha, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccittha, avijjāsavāpi cittaṃ vimuccittha. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ ahosi. ‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti abbhaññāsiṃ. Ayaṃ kho me, brāhmaṇa, rattiyā pacchime yāme tatiyā vijjā adhigatā, avijjā vihatā vijjā uppannā, tamo vihato āloko uppanno, yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa viharato.

 

 

 

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: “Ðây là khổ”, thắng tri như thật: “Ðây là nguyên nhân của khổ”, thắng tri như thật: “Ðây là khổ diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là con đường đưa đến khổ diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là những lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Ðây là nguyên nhân các lậu hoặc”, thắng tri như thật: “Ðây là các lậu hoặc diệt”, thắng tri như thật: “Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt”. Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”. Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

 

 

 

When my concentrated mind was thus purified, bright, unblemished, rid of imperfection, malleable, wieldy, steady, and attained to imperturbability, I directed it to knowledge of the destruction of the taints. I directly knew as it actually is: ‘This is suffering’; I directly knew as it actually is: ‘This is the origin of suffering’; I directly knew as it actually is: ‘This is the cessation of suffering’; I directly knew as it actually is: ‘This is the way leading to the cessation of suffering.’ I directly knew as it actually is: ‘These are the taints’; I directly knew as it actually is: ‘This is the origin of the taints’; I directly knew as it actually is: ‘This is the cessation of the taints’; I directly knew as it actually is: ‘This is the way leading to the cessation of the taints.’ When I knew and saw thus, my mind was liberated from the taint of sensual desire, from the taint of being, and from the taint of ignorance. When it was liberated, there came the knowledge: ‘It is liberated.’ I directly knew: ‘Birth is destroyed, the holy life has been lived, what had to be done has been done, there is no more coming to any state of being.’ This was the third true knowledge attained by me in the last watch of the night. Ignorance was banished and true knowledge arose, darkness was banished and light arose, as happens in one who abides diligent, ardent, and resolute.
Siyā kho pana te, brāhmaṇa, evamassa: ‘ajjāpi nūna samaṇo gotamo avītarāgo avītadoso avītamoho, tasmā arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevatī’ti. Na kho panetaṃ, brāhmaṇa, evaṃ daṭṭhabbaṃ. Dve kho ahaṃ, brāhmaṇa, atthavase sampassamāno arañña­vana­patthāni pantāni senāsanāni paṭisevāmi—attano ca diṭṭha­dhamma­su­kha­vihāraṃ sampassamāno, pacchimañca janataṃ anukampamāno”ti. Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: “Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu”. Này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai. Now, brahmin, it might be that you think: ‘Perhaps the recluse Gotama is not free from lust, hate, and delusion even today, which is why he still resorts to remote jungle-thicket resting places in the forest.’ But you should not think thus. It is because I see two benefits that I still resort to remote jungle-thicket resting places in the forest: I see a pleasant abiding for myself here and now, and I have compassion for future generations.
Anukampitarūpā vatāyaṃ bhotā gotamena pacchimā janatā, yathā taṃ arahatā sammā­sambud­dhena. Abhikkantaṃ, bho gotama. Abhikkantaṃ, bho gotama. Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhotā gotamena aneka­pariyā­yena dhammo pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca ­bhik­khu­saṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti. Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! … Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Indeed, it is because Master Gotama is an Accomplished One, a Fully Enlightened One, that he has compassion for future generations. Magnificent, Master Gotama! Magnificent, Master Gotama! Master Gotama has made the Dhamma clear in many ways, as though he were turning upright what had been overthrown, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a lamp in the dark for those with eyesight to see forms. I go to Master Gotama for refuge and to the Dhamma and to the Sangha of bhikkhus. From today let Master Gotama remember me as a lay follower who has gone to him for refuge for life.

 

Nguồn:

Pali: MN 4: Bhaya­bhe­rava­sutta (Pāli) - Majjhima Nikāya - SuttaCentral

Việt: MN 4: Kinh Sợ hãi khiếp đảm (Tiếng Việt) - Majjhima Nikāya - SuttaCentral

English: MN 4: Fear and Dread (English) - Majjhima Nikāya - SuttaCentral

 

Những tập kinh khác:

MN 4: Bhayabheravasutta – Kinh Sợ Hãi Khiếp Đảm – Fear and Dread

Những bộ Kinh khác :