[02] Phẩm Hai: Tập Hai Kệ

Tuesday February 15, 2022

Tiểu Bộ - Khuddhaka Nikāya

Trưởng Lão Ni Kệ - Therīgāthā
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

--------------------

Phẩm II: Tập Hai Kệ

 

(XIX) Abhirū­pa­nandā­therī­gāthā, (Thig 2.1)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kapilavatthu, con gái vợ chính của vua Khemaka, dòng họ Thích-ca (Sākya), tên là Nandā. Vì nàng rất đẹp nên được tên là Abhirūpa Nandā (Nandā đẹp). Ngày nàng lựa Carabhūta làm chồng, thời Carabhūta mệnh chung và cha mẹ cưỡng bức nàng xuất gia. Sau khi đã xuất gia, nàng vẫn tự kiêu với sắc đẹp của nàng, và sợ bậc Ðạo Sư quở trách, nàng lẫn tránh Ngài. Thế Tôn biết được hạnh nàng đã thuần thục nên bảo Mahāpajāpatī quy tụ mọi Tỷ-kheo-ni lại để Ngài dạy bảo, nàng nhờ người khác đi thế. Ðức Phật không chấp nhận nên nàng phải đến dự. Ðức Phật hóa sanh một nữ nhân rất đẹp, nhưng dần dần bị già nua, yếu hèn và nàng bị xúc động mạnh. Rồi đức Phật nói với nàng những bài kệ như sau:

19. Này Nandāà, hãy nhìn,
Tấm thân chỗ quy tụ,
Nhiều bệnh hoạn, bất tịnh,
Ðầy hôi hám thối nát,
Tâm nàng hãy tu tập,
Quán tri tánh bất tịnh,
Ðạt cho được nhất tâm,
Tâm tư khéo thiền định.

20. Hãy tu tập vô tướng,
Hãy bỏ mạn tùy miên,
Do thắng tri được mạn,
Nàng sẽ sống an tịnh.

Khi Thế Tôn nói xong, nàng chứng quả A-la-hán. Nói lại cho nàng những bài kệ này, nàng xem các bài kệ là lời tuyên bố chánh trí của nàng.

 

(XX) Jentā­therī­gāthā, (Thig 2.2)

Câu chuyện về đời sống quá khứ, về hiện tại của nàng giống như câu chuyện của Nandā đẹp. Nhưng nàng sanh ở Vesāli, tại một gia đình hoàng tộc Licchavi. Nàng chứng quả A-la-hán khi nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp. Và khi suy nghĩ đến sự biến đổi, trên tự thân, nàng sung sướng nói lên bài kệ này:

21. Chính Bảy giác chi này
Là đường đạt Niết-bàn,
Tất cả, ta tu tập,
Như lời đức Phật dạy.

22. Ta thấy được Thế Tôn,
Ðây thân tụ cuối cùng
Vòng sanh tử đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.

 

(XXI) Sumaṅga­la­mātā­therī­gāthā, (Thig 2.3)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình nghèo và được gả lấy một người đan mây làm chồng. Nàng sanh được một người con trai tên Sumaṅgala, sau trở thành bậc Trưởng lão và chứng quả A-la-hán. Nàng không được biết tên và được gọi là một Trưởng lão Ni không có tên hay mẹ của Sumaṅgala. Nàng trở thành một Tỷ-kheo-ni và một hôm nghĩ đến sự đau khổ khi còn là cư sĩ, nàng cảm thấy xúc động và với thiền quán phát triển, nàng chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ, nàng nói lên bài kệ như sau:

23. Hỡi thiện giải thoát Ni,
Lành thay khéo giải thoát,
Ta được khéo giải thoát,
Khỏi cái chày giã gạo,
Ta không còn xấu hổ,
Với ông chồng đan dù,
Với soong chảo nấu ăn,
Với nghèo đói tồi tàn.

24. Chặt đứt được tham sân,
Ta sống không tham sân,
Ta đi đến gốc cây,
Ôi, an lạc ta thiền.

 

(XXII) Aḍḍha­kāsi­therī­gāthā, (Thig 2.4)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở xứ Kāsi con của một công dân giàu có và có danh tiếng. Nhưng vì ảnh hưởng của khẩu nghiệp của đời trước nàng trở thành một kỹ nữ. Về sau nàng xuất gia và được làm lễ xuất gia với một vị đại diện đặc biệt được ghi trong tập Cūla vagga (Tiểu phẩm)

Nàng muốn đi đến Sāvatthī để được xuất gia nhưng bị dân làng ăn chơi ở Benerees chận đường không cho nàng đi. Nàng cho người đến hỏi ý kiến Thế Tôn và Thế Tôn cho phép nàng được xuất gia với một vị đại diện đặc biệt. Rồi nàng nhứt tâm quán tưởng và không bao lâu chứng quả A-la-hán với pháp tín thọ, nghĩa tín thọ. Rồi nàng nói lên bài kệ như sau:

25. Tiền lạc thú của ta,
Không thua thuế Kāsi,
Sau khi so sánh giá,
Thôn trưởng định giá vậy.

26. Nay ta lại nhàm chán,
Chính sắc đẹp của ta,
Ta chán ngấy sắc ấy,
Ta không còn luyến tiếc.
Ta chớ có liên tục,
Chạy theo vòng luân hồi,
Ba minh ta chứng được,
Thành tựu lời Phật dạy.

 

(XXIII) Cittā­therī­gāthā, (Thig 2.5)

Nàng được sanh vào một gia đình ưu tú ở Rājagaha (Vương Xá), khi đến tuổi trưởng thành, nàng nghe bậc Ðạo Sư thuyết pháp ở cửa thành Rājagaha, trở thành một tín nữ và được Mahāpajāpatī cho xuất gia. Sau khi nàng về già, trong khi leo núi Linh Thứu, với thiền quán được phát triển, nàng chứng quả A-la-hán. Suy nghĩ đến kết quả này, nàng nói lên bài kệ:

27. Dầu ta có mỏi mệt,
Bệnh hoạn quá yếu đuối,
Dựa trên gậy ta đi,
Ta leo lên đỉnh núi.

28. Với đại y vắt ngang,
Với bình bát lộn ngược,
Ta dựa mình tảng đá,
Phá tan khối si ám.

 

(XXIV) Metti­kā­therī­gāthā, (Thig 2.6)

Nàng được sanh làm con một gia đình quyền quý Bà-la-môn ở Rājagaha. Ðời nàng cũng giống như đời của Città chỉ khác là nàng leo một ngọn núi khác, đối diện với núi Linh Thứu. Suy tư trên quả chứng của mình, nàng nói lên bài kệ:

29. Dầu ta có đau đớn,
Sức yếu, tuổi trẻ qua,
Dựa trên gậy, ta đi,
Ta leo lên đỉnh núi.

30. Với đại y vắt ngang,
Với bình bát lộn ngược,
Ta ngồi trên tảng đá,
Tâm ta được giải thoát.
Ba minh chứng đạt được,
Thành tựu lời Phật dạy.

 

(XXV) Mittā­therī­gāthā, (Thig 2.7)

Nàng được sinh ra trong gia đình công chúa Sākya (Thích-ca) ở Kapilavatthu, từ bỏ gia đình xuất gia cùng với Mahāpajāpatī, rồi sau những năm tháng tu hành cần mẫn, nàng chứng được quả A-la-hán nghĩ đến thành quả của mình, nàng vui vẻ nói lên những bài kệ này:

31. Ngày mười bốn, ngày rằm,
Ngày mồng tám giữa tháng,
Ngày thần túc nguyệt phần,
Ta thọ trì tám giới.

32. Ta gìn giữ trai giới,
Khiến chư Thiên hoan hỷ,
Mỗi ngày ăn một bữa,
Cạo đầu đắp đại y,
Ta đâu muốn thiên giới,
Ta nhiếp phục tâm khổ.

 

(XXVI) Abhaya­mātu­therī­gāthā, (Thig 2.8)

Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh là một hoa khôi ở Ujjenī, tên là Badumavati. Vua Bimbisāra ở Magadha nghe tiếng và muốn gặp nàng. Với sự giúp đỡ của vị giáo sĩ của vua, vua được gặp nàng và nàng có thai với vua. Vua bảo khi nào nó lớn thì đưa vào cung. Nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên là Abhaya (Vô Úy). Khi được bảy tuổi, nàng gửi con trai đến vua Bimbisāra và vua thương yêu nó và nuôi dưỡng nó với các người con khác của vua. Sau này đứa trẻ lớn lên tin theo đạo Phật, xuất gia, như đã được tường trình trong Trưởng lão Tăng Kệ. Về sau, mẹ của Abhaya nghe Abhaya thuyết pháp, cũng xin xuất gia và sau một thời gian tu hành, chứng được quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ. Nàng nhớ lại những câu kệ do con nàng giảng cho nàng và thêm vào những bài kệ của chính nàng:

33. Hỡi thân mẫu thân yêu!
Từ bàn chân trở lên,
Từ đầu tóc trở xuống,
Hãy quán sát thân này,
Thân này thật bất tịnh,
Thật hôi hám thối tha.

34. Ta an trú như vậy,
Mọi tham dục nhổ sạch,
Nhiệt não được đoạn trừ,
Ta mát lạnh, tịch tịnh.

 

(XXVII) Abhayā­therī­gāthā, (Thig 2.9)

Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Ujenni, tại một gia đình quyền quý và trở thành bạn thân với mẹ của Abhaya. Khi nghe mẹ của Abhaya xuất gia, Abhaya vì thương mẹ của nàng nên cùng xuất gia theo. Cùng ở tại Rājagaha (Vương Xá), một hôm nàng đi đến một khu vườn để quán bất tịnh. Bậc Ðạo Sư tại hương phòng, Ngài hiện cho nàng thấy đối tượng nàng muốn thiền quán. Thấy hình ảnh ấy, nàng hốt hoảng. Bậc Ðạo Sư phóng hào quang hiện ra như ngồi trước mặt nàng và nói lên bài kệ:

36. Hỡi này vô úy Ni!
Thân này thật mỏng manh,
Chính ở đây phàm phu,
Ưa thích, thường tham đắm.
Ta sẽ bỏ thân này,
Tỉnh giác và chánh niệm
Chú tâm không phóng dật,
Ta gắng thoát pháp khổ,
Ái diệt, ta chứng đạt,
Thành tựu lời Phật dạy.

Khi bậc Ðạo Sư nói xong, nàng chứng quả A-la-hán, hoan hỷ, nàng hướng các bài kệ về nội tâm như là những bài kệ nói lên cho mình.

 

(XXVIII) Sāmātherīgāthā, (Thig 2.10)

Do làm các thiện sự trong các đời trước, trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh ở Kosambi, trong một gia đình có danh vọng. Khi Samāvati, bạn thân của nàng chết, vì quá đau khổ, nàng xuất gia. Nhưng vì không nhiếp phục được đau khổ đối với bạn của nàng, nàng không nắm được con đường Thánh đạo. Một thời, khi ngồi nghe Tôn giả Ānanda thuyết pháp, nàng chứng được Pháp nhãn và bảy ngày sau nàng chứng quả A-la-hán, với pháp tín thọ, với nghĩa tín thọ.

Suy tư đến quả chứng của mình, nàng nói lên những bài kệ này:

37. Bốn lần và năm lần,
Ta ra khỏi tinh xá,
Nhưng tâm không an tịnh,
Không nhiếp phục được tâm.

38. Nhưng đến đêm mồng tám,
Ái được ta nhổ sạch
Chú tâm không phóng dật,
Ta gắng thoát pháp khổ,
Ái diệt, ta chứng đạt,
Thành tựu lời Phật dạy.

Những tập kinh khác:

[00] Mục Lục

[01] Phẩm I: Tập Một Kệ

[02] Phẩm Hai: Tập Hai Kệ

[03] Phẩm Ba: Tập Ba Kệ

[04] Phẩm Bốn: Tập Bốn Kệ

[05] Phẩm Năm: Tập Năm Kệ

[06] Phẩm Sáu: Tập Sáu Kệ

[07] Phẩm Bảy: Tập Bảy Kệ

[08] Phẩm Tám: Tập Tám Kệ

[09] Phẩm Chín: Tập Chín Kệ

[10] Phẩm Mười: Tập Mười Kệ

[11] Phẩm Mười Một: Tập Mười Hai Kệ

[12] Phẩm Mười Hai: Tập Mười Sáu Kệ

[13] Phẩm Mười Ba: Tập Hai Mươi Kệ

[14] Phẩm Mười Bốn:14 Tập Ba Mươi Kệ

[15] Phẩm Mười Lăm: Tập Bốn Mươi Kệ

[16] Phẩm Mười Sáu: Ðại Phẩm

Những bộ Kinh khác :