LUẬT NGHI TỔNG QUÁT
VINAYA SAṄKHEPA
Tỳ Kheo GIÁC GIỚI
BODHISĪLA BHIKKHU
MỤC LỤC
Cách thức (saṅgha-uposatha)
Phép vấn đáp
Thuyết phần duyên khởi
Thuyết giới triệt khai
Thuyết giới tăng tàng
Thuyết giới bất định
Thuyết giới ưng xả đối trị
Thuyết giới ưng đối trị
Thuyết giới ưng phát lộ
Thuyết giới ưng học pháp
Thuyết giới diệt tranh
Thuyết phần kết
Cách tụng giới bổn tóm tắt.
Cách thức gaṇa-uposatha.
Cách thức puggala-uposatha
Cách thức saṅghappavāraṇā
Cách thức gaṇappavāraṇā
Cách thức puggalappavāraṇā.
Phép dời ngày tự tứ
Tăng sự kết giới Sīmā.
Tăng sự lễ tu Sa-di
Tăng sự truyền Cụ túc giới.
Tăng sự phê chuẩn chỗ xây cất.
Tăng sự cho phép rời tam y.
[05] TĂNG SỰ TRỊ PHẠT TỘI TĂNG TÀNG.
Xử lý tội không che giấu
Xử lý tội che giấu thời gian xác định
Xử lý tội che giấu thời gian không rõ
Xử lý tội liên tục sai phạm
Xử lý tội tổng hợp tội danh
Xử lý tội tái phạm khi đang thọ phạt
Phép trị phạt phạm đàn
Phép gởi thoả hiệp tăng sự.
Phép nhập hạ.
Phép sử dụng y bát
Phép ký gởi y bát.
-ooOoo-
Một vị Tỳ-kheo trong Phật giáo cần phải thông thạo các luật nghi, luật nghi về giới hạnh và luật nghi về tăng sự. Sự thông thạo về giới hạnh sẽ giúp cho vị Tỳ-kheo an trú trong pháp, trở thành khả kính trong giáo hội; thông thạo về tăng sự sẽ giúp cho tăng chúng giải quyết các vụ kiện trong giáo hội tăng già theo đúng tinh thần pháp luật của Ðức Phật đã ban hành.
Thời nay thật khó có thể có một vị Tỳ-kheo thông hiểu và thuộc lòng giới bổn và các nghi thức tăng sự; chỉ ở các xứ đạo Phật quốc giáo thì còn có những bậc Tỳ-kheo khả kính ấy.
Nên việc đúc kết và trình bày tổng quát một quyển sách luật nghi "cầm tay" để học tập và tiện mang theo, thì quả thật là cần thiết.
Trước đây, Hòa thượng Hộ tông đã soạn dịch quyển "Luật xuất gia tóm tắt", hay Hòa thượng Bửu Chơn đã soạn dịch quyển "Tứ Thanh Tịnh Giới" song ngữ Pāli-Việt ... Những quyển ấy đều rất cần thiết, tuy nhiên vẫn còn thiếu một vài luật nghi tăng sự chưa được trình bày, hoặc có trong sách này nhưng không có trong sách kia, nên khi cần xem để học thì các vị Tỳ-kheo phải tìm nhiều quyển luật và mang theo bất tiện.
Nay quyển "Luật nghi Tổng Quát" (vinaya-saṅkhepa) được Ðại Ðức Giác Giới công phu biên soạn nhằm vào việc hỗ trợ việc học tập luật nghi cho các vị Tỳ-kheo tại các trường Phật học, hoặc giúp các vị Luật Sư làm cẩm nang để ứng biến. Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
Sách trình bày có giới bổn Pāli-Việt, có các nghi thức và tuyên ngôn tăng sự, có phần nghi luật sinh hoạt cá nhân của Tỳ-kheo.
Do tính chất quan trọng của quyển sách như vậy nên tôi xin trân trọng giới thiệu quyển "Luật Nghi Tổng Quát" này đến chư Tăng.
Viết tại TP. Hồ Chí Minh ngày 27/ 03/2002
Tỳ-kheo Giác Chánh
Trưởng ban Văn hóa Phật giáo Tỉnh Ðồng Nai.
-ooOoo-
Phật giáo là một Tôn giáo lớn trên thế giới, có lịch sử truyền bá lâu đời và có hệ thống Giáo lý qui mô nhất.
Phật Giáo ảnh hưởng rất mạnh trong quần chúng, nhất là ở các nước Châu Á, và đặc biệt là Phật Giáo có số lượng Tăng sĩ đông đảo.
Tăng sĩ Phật giáo sinh hoạt theo tập thể giáo hội, được lập thành theo từng xứ sở quốc gia. Thế nhưng, mặc dù ở mỗi quốc độ có phong tục tập quán khác nhau, các Tăng sĩ Phật giáo, nói riêng Tăng sĩ Phật giáo Theravāda hay Phật giáo Nam tông, vẫn giữ được sự hòa hợp đồng nhất với nhau trong cách sinh hoạt cộng đồng Tăng sĩ mỗi khi các vị hợp lại từ các đất nước dân tộc. Ðiều đó chính nhờ truyền thống Giới luật (Vinaya); chính Giới luật đồng nhất đã tạo sự hài hòa và sự cảm thông giữa những vị Tăng sĩ sắc tộc khác nhau, quốc độ khác nhau.
Phật giáo có Tam Tạng Giáo Lý (Tipiṭaka) đồ sộ; Trong đó Tạng Luật (Vinayapiṭaka) giữ vai trò cội rễ của giáo pháp, gồm có năm bộ luật: luật Đại phân tích (mahāvibhaṅga), luật Tỳ Kheo ni phân tích (bhikkhu-nīvibhaṅga), luật đại phẩm (mahāvagga), luật tiểu phẩm (cullavagga), và bộ luật phụ thuộc (parivāra).
Hai bộ luật đầu giải thích chi tiết các học giới (sikkhāpada) của hai phái Tăng (Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni), hai bộ luật kế lại dẫn giải những nghi thức tăng sự (saṅghakamma), và bộ luật cuối cùng thì thống kê tổng hợp cả về giới và luật của 4 bộ kia. Các vị Tỳ-kheo trong Phật giáo cần phải học tập thông suốt Giới luật, gồm các học giới cấm chế và các phép tắc sinh hoạt trong đời sống tu sĩ, cá nhân và cộng đồng. Có như thế giáo hội Tăng già (Saṅgha) mới được tốt đẹp và có sức mạnh đoàn kết.
Quyển Luật Nghi Tổng Quát này không nêu đầy đủ những chi tiết về Giới và Luật; mà chỉ là trình bày tóm lược những nghi thức cần thiết để áp dụng trong những Tăng sự và phận sự thông thường.
Mục đích của chúng tôi khi soạn quyển Luật nghi Tổng Quát này là để dùng học tập các luật nghi ứng dụng cho gọn nhanh khỏi phải tra cứu khi cần; lại có thể làm cẩm nang cho các vị Luật sư mang theo bên mình.
Thoạt đầu chúng tôi chỉ soạn và ghi nguyên văn Pāli thôi, nhưng về sau được sự khích lệ và gợi ý của các bậc Trưởng lão, các bậc Trí thức, khuyên nên dịch soạn song ngữ để dễ phổ biến trong Giáo hội Tăng già. Vì vậy chúng tôi mới dịch các văn bản Pāli ra tiếng Việt, đồng thời cũng giải thích tóm tắt các sự kiện Tăng sự.
Quyển luật này, đã gọi là Luật Nghi Tổng Quát và là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thường xảy ra, do đó chúng tôi chỉ soạn dịch các Luật nghi thông thường mà thôi, như là: Lễ phát lồ, lễ tự tứ, phép nhập hạ, phép sám hối tội, phép trị phạt Tăng tàng, sự gián nghị, sự phê chuẩn xây cất, phép kết giới Sīmā, phép thọ y Kaṭhina, phép truyền giới cụ túc, phép sử dụng y bát, ký gởi y bát, đưa lời thỏa thuận, sự cho phép rời tam y ...
Sự sắp xếp tiêu đề luật trong quyển luật nghi này, chúng tôi cũng có dụng ý chớ không phải không có; trước nhất là chúng tôi dựa theo sự xếp đặt tăng sự trong Luật tạng Mahāvagga và Cullavagga, kế đến là chúng tôi chủ ý muốn trình bày từ tăng sự (sinh hoạt tăng hội) đến phận sự (sinh hoạt cá nhân).
Với công đức biên soạn quyển Luật Nghi này, chúng tôi xin phát nguyện cho được đắc quả vô lậu giải thoát với tứ tuệ đạt thông trong tương lai.
Xin thành tâm hồi hướng phước này đến chư thiên hộ pháp, các bậc hữu ân cha mẹ thầy tổ, cùng các thiện hữu trí đã động viên khích lệ chúng tôi hoàn thành công việc dịch soạn quyển sách.
Với tâm thành phát nguyện.
Mùa an cư 2529 (TL 1986)
Tỳ-kheo Giác Giới
Chùa Siêu Lý, Vĩnh Long
-ooOoo-
LỄ UPOSATHA
(Bố-Tát hay Trai Giới)
Luật qui định, các vị Tỳ-kheo mỗi nửa tháng một lần phải họp mặt để tụng đọc giới bổn pāṭimokkha. Ngày uposatha được ấn định là ngày rằm và cuối tháng theo âm lịch.
Có 3 trường hợp Bố-tát:
1. Saṅgha-uposatha, tăng bố-tát. Tức là hội chúng có 4 vị Tỳ-kheo trở lên họp mặt nơi Sīmā làm bố-tát; Tăng bố-tát phải làm theo cách tụng giới bổn Pāṭimokkha.
2. Gaṇa-uposatha, nhóm bố-tát. Tức là hội chúng chỉ có 2 hoặc 3 vị Tỳ-kheo họp mặt làm bố-tát; Trường hợp này không tụng giới mà chỉ làm bố-tát tỏ thanh tịnh (parisuddhi-uposatha) với nhau.
3. Puggala-uposatha, người bố-tát. Tức là chỉ đơn độc một vị Tỳ-kheo trong ngày bố-tát, không tụng giới cũng không tỏ thanh tịnh, mà chỉ bố-tát chú nguyện (adhitthāna-uposatha).
-ooOoo-
CÁCH THỨC SAṄGHA-UPOSATHA
Trước khi tụng giới phải cử hai vị Tỳ-kheo thông hiểu đứng ra hỏi và đáp các luật lệ trong ngày bố-tát.
CÁCH VẤN ÐÁP NHƯ SAU:
Vấn: Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ āyasmantaṃ "itthan-nāmaṃ" vinayaṃ puccheyyaṃ.
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin được hỏi luật Tôn-giả tên vậy.
Ðáp: Namo tassa bhagavato arahato sammā-sambuddhassa ... Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ āyasmatā "itthannā-mena" vinayaṃ puṭṭho vissajjeyyaṃ
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi trình, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi phải đáp luật do Tôn-giả tên vậy đã hỏi.
Vấn: Sammajjanī padīpo ca udakaṃ āsanena ca uposathassa etāni pubbakaranan'ti vuccati. Ukāsa sammajjanī?
Việc quét dọn, đèn đuốc, nước nôi, chỗ ngồi, các việc đó là tiền sự trong ngày bố-tát. Vậy sự quét dọn là gì?
Ðáp: Sammajjanakaranañca.
Là việc lau bụi quét rác sạch sẽ chỗ hành lễ.
Vấn: Padīpo ca?
Sao là đèn đuốc?
Ðáp: Padīpa-ujjalanañca. Idāni suriyālokassa natthitāya padīpakiccaṃ atthi. (hay là idāni suri-yālokassa atthitāya padīpakiccaṃ natthi)
Là việc thắp đèn đốt đuốc cho sáng. Bây giờ không có ánh sáng mặt trời, phải có đèn. (bây giờ giờ có ánh sáng mặt trời, không cần thắp đèn).
Vấn: Udakaṃ āsanena ca?
Nước và chỗ ngồi là sao?
Ðáp: Āsanena saha pānīyaparibhojanīya uda-kaṭṭhapanañca.
Là sự sắp đặt nước uống, nước rửa cùng với tọa cụ trải ngồi nơi hành lễ.
Vấn: Uposathassa etāni pubbakaraṇan'ti vuccati?
Sao gọi là những tiền sự trong ngày bố-tát?
Ðáp: Etāni cattāri vattāni sammajjanakara-ṇādīni saṅghasannipātato paṭhamaṃ kattabbattā uposathassa uposathakammassa pubbakaraṇan'ti vuc-cati pubbakaraṇānī'ti akkhātāni.
Ðược gọi là tiền sự của Ngày bố-tát, vì bốn công việc đó như là quét dọn, v.v ... cần phải làm xong trước khi Tăng tụ họp. Nói rằng tiền sự là thế.
Vấn: Chandapārisuddhi utukkhānaṃ bhik-khugaṇanā ca ovādo uposathassa etāni pubbakiccan'ti vuccati chandapārisuddhi?
Trình lời thoả hiệp, tỏ sự thanh tịnh, kể mùa tiết, đếm tăng số, việc giáo giới, những việc đó gọi là "tiền phận sự" của lễ bố-tát. Việc trình lời thoả hiệp và tỏ sự thanh tịnh là sao?
Ðáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ chanda-pārisuddhi āharanañca. Idha natthi.
Là sự đem trình Tăng lời thoả hiệp và tịnh hạnh của những vị Tỳ-kheo đáng gởi lời [1]. Hôm nay không có [2].
Vấn: Utukkhānaṃ?
Việc kể mùa tiết?
Ðáp: Hemantādīnaṃ tiṇṇaṃ utūnaṃ etta-kaṃ atikkantaṃ ettakaṃ avasiṭṭhan'ti evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnī'dha pana sāsane hemantagimha-vassānānaṃ vasena tīni honti.
Ayaṃ hemanta-utu asmiṃ utumhi aṭṭha uposathā. Iminā pakkhena eko uposatho sampatto natthi uposatho atikkanto satta uposathā avasiṭṭhā.
Trong Phật giáo có ba mùa: mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa, việc kể mùa tiết như sau, kể rằng đây là mùa nào trong ba mùa, đã trải qua bao nhiêu kỳ bố-tát? còn lại bao nhiêu kỳ? chẳng hạn như:
"Ðây là mùa lạnh, trong mùa này có tám kỳ bố-tát, nay là một kỳ bố-tát đang diễn ra, chưa có kỳ bố-tát nào trải qua, vậy còn lại bảy kỳ bố-tát nữa". [3]
Vấn: Bhikkhugaṇanā ca?
Việc đếm tăng số?
Ðáp: Imasmiṃ uposathagge sannipati tānaṃ bhikkhūnaṃ gaṇanā "cattāro" bhikkhū honti.
Tại phòng bố-tát này có số lượng tỳ-kheo tụ hội là "bốn" [4] vị tỳ-kheo.
Vấn: Ovādo?
Việc giáo giới?
Ðáp: Bhikkhunīnaṃ ovādo dātabbo. idāni pana tāsaṃ natthitāya so ca ovādo idha natthi.
Là việc phải dạy đạo chư Tỳ-kheo ni. Nhưng hiện nay vì Tỳ-kheo ni không còn nữa nên việc dạy đạo ấy không có.
Vấn: Uposathassa etāni pubbakiccan'ti vuccati?
Sao gọi rằng các việc đó là tiền phận sự của lễ bố-tát?
Ðáp: Etāni pañca kammāni chandāharaṇā-dīni pāṭimokkhuddesato paṭhamaṃ kattabbattā upo-sathassa uposathakammassa pubbakiccan'ti vuccati pubbakiccānī'ti akkhātāni.
Gọi là tiền phận sự của lễ bố-tát, tức nói đến các phận sự tiên khởi của lễ bố-tát, năm việc đó như là đem trình lời thoả hiệp v.v ... cần phải làm xong trước khi tụng giới bổn.
Vấn: uposatho yāvatikā ca bhikkhū kam-mappattā sabhāgāpattiyo ca na vijjanti vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti pattakallan'ti vuccati. Uposatho?
Ngày bố-tát, chừng ấy Tỳ-kheo làm được tăng sự, không có đồng tội, trong chúng không có hạng người cần tránh, như thế gọi là hợp thời. Ngày bố-tát là gì?
Ðáp: Tīsu uposathadivasesu catuddasīpaṇ-ṇara sīsamaggīsu. Ajjuposatho "paṇṇaraso".
Có ba ngày làm bố-tát là ngày 14, ngày rằm và ngày hòa hợp tăng [5]. Ngày bố-tát hôm nay là "ngày rằm" [6]
Vấn: Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā?
Chừng nhiêu vị Tỳ-kheo làm được tăng sự?
Ðáp: Yattakā ca bhikkhū tassa uposatha-kammassa pattāyuttā anurūpā sabbantimena paric-chedena cattāro bhikkhū pakatattā saṅghena anuk-khittā te ca kho hatthapāsaṃ avijjahitvā ekasīmā-yaṃ ṭhitā.
Tối đa bao nhiêu vị Tỳ-kheo cũng được, cũng thích hợp làm tăng sự bố-tát cả, nhưng tối thiểu cũng là bốn vị Tỳ-kheo thanh tịnh không bị tăng nghị tội, và các vị ấy cùng trụ trong một giới Sīmā không cách biệt hắc tay.
Vấn: Sabhāgāpattiyo ca na vijjanti?
Không có đồng tội là sao?
Ðáp: Vikālabhojanādivatthu sabhāgāpattiyo ca na vijjanti.
Là không có các tội bị phạm giống nhau như thể đồng phạm tội ăn phi thời chẳng hạn.
Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti?
Trong chúng không có hạng người cần tránh là sao?
Ðáp: gahaṭṭhapaṇḍakādayo ekavīsati vajja-nīyapuggalā hatthapāsato bahikaraṇavasena vajje-tabbā tasmiṃ na honti.
Là trong chỗ tăng hội ấy không có 21 hạng người phải cách ly chẳng hạn như người thế tục, người bộ nấp v.v... [7] nên cách xa ngoài hắc tay.
Vấn: Pattakallan'ti vuccati?
Sao gọi là hợp thời?
Ðáp: Saṅghassa uposathakammaṃ imehi ca-tūhi lakkhaṇehi saṅgahitaṃ pattakallan'ti vuccati pattakālavantan'ti akkhātaṃ.
Gọi là hợp thời, tức nói đến tặng sự đúng thời điểm để làm, như việc bố-tát của tăng đã hội đủ bốn yếu tố này vậy.
*
Khi hỏi luật xong, vị vấn phải bạch thỉnh tụng giới như sau:
Pubbakaraṇapubbakiccāni samāpetvā desitā-pattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā paṭimokkhaṃ uddisituṃ ārādhanaṃ karomi.
Sau khi hoàn tất các tiền sự và phận sự tiên khởi, với sự đồng ý của tỳ-kheo tăng hòa hợp và đã phát lồ tội lỗi, tôi cầu thỉnh tụng giới bổn.
*
Sau khi vấn đáp luật xong, một vị sẽ bắt đầu tụng giới (pāṭimokkhuddeso).
Tụng giới, phải tụng thứ lớp năm phần uddesa là:
1. Nidānuddesa. Thuyết giới khởi.
2. Pārājikuddesa. Thuyết giới triệt khai.
3. Saṅghādisesuddesa. Thuyết giới tăng tàng.
4. Aniyatuddesa. Thuyết giới bất định.
5. Vitthāruddesa. Thuyết giới tổng trì.
Tụng xong cả năm phần ấy mới tụng kết.
Trường hợp có điều trở ngại (antarāyika) thì được phép tụng giới tóm tắt.
-ooOoo-
THUYẾT DUYÊN KHỞI
(Nidānuddeso)
Namo tassa bhagavato arahato sammāsam-buddhassa ...
Kính lễ Ðức Thế Tôn bậc ứng cúng đấng chánh đẳng giác.
Suṇātu me bhante saṅgho ajj'uposatho "paṇ-ṇaraso" [8]. yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho upo-sathaṃ kareyya pātimokkhaṃ uddiseyya.
Kiṃ saṅghassa pubbakiccaṃ? pārisuddhiṃ āyasmanto ārocetha pāṭimokkhaṃ uddisissāmi taṃ sabb'eva santā sādhukaṃ suṇoma manasikaroma yassa siyā āpatti so āvikareyya asantiyā āpattiyā tuṇhī bhavitabbaṃ. Tuṇhī bhāvena kho pan'āyas-mante parisuddhā'ti vedissāmi. yathā kho pana paccekapuṭṭhassa veyyākaraṇaṃ hoti. Evamevaṃ evarūpāya parisāya yāvatatiyaṃ anussāvitaṃ hoti. Yo pana bhikkhu yāvatatiyaṃ anussāviyamāne sara-māno santiṃ āpattiṃ n'āvikareyya sampajāna-musāvādassa hoti sampajānamusāvādo kho pan' āyasmanto antarāyiko dhammo vutto bhagavatā tas-mā saramānena bhikkhunā āpannena visuddhā-pekkhena santī āpatti āvikātabbā āvikatā hi'ssa phāsu hoti.
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth'āyasmanto tasmā tuṇhī evame-taṃ dhārayāmi.
Nidānuddeso niṭṭhito.
*
Bạch Ðại Ðức Tăng, xin Tăng hãy nghe tôi nói, hôm nay là lễ bố-tát ngày rằm. Nếu đã hợp thời, chúng tăng có thể cử hành lễ bố-tát thuyết giới ba-đề-mộc-xoa.
Phận sự trước tiên của Tăng là gì? là các Tôn giả hãy bày tỏ sự thanh tịnh, tôi sẽ thuyết giới ba-đề-mộc-xoa. Khi tất cả thanh tịnh hãy lắng nghe hãy khéo tác ý giới bổn; vị nào có tội lỗi phải sám hối, vị không có tội thì nên im lặng. Do sự im lặng mà tôi biết rằng các Tôn-giả được thanh tịnh. Cũng như một người bị cật vấn phải trả lời thế nào thì cũng vậy giữa hội chúng nầy sẽ được bố cáo ba lần. Vị Tỳ-kheo nào khi được bố cáo ba lần,nhớ mà chẳng sám hối tội lỗi thì vị ấy phạm lỗi biết vẫn nói dối; Thưa các Tôn giả, sự biết vẫn nói dối là một pháp chướng ngại mà Ðức Thế Tôn đã nói; bởi thế với vị Tỳ-kheo đã phạm tội nhớ ra và muốn thanh tịnh thì cần phải sám hối tội lỗi, khi đã sám hối thì vị ấy có sự an vui.
Thưa chư Tôn giả, duyên khởi đã nói xong.
Ở đây tôi xin hỏi các Tôn Giả; các vị có được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ nhì, các vị có được thanh tịnh chăng? Tôi hỏi lần thứ ba, các vị có được thanh tịnh chăng?
DỨT PHẦN THUYẾT DUYÊN KHỞI.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI TRIỆT KHAI
(Pārājikuddeso)
Tatr'ime cattāro pārājikā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ sikkhāsājī-vasamāpanno sikkhaṃ appaccakkhāya dubbalyaṃ anāvikatvā methunaṃ dhammaṃ paṭiseveyya anta-maso tiracchānagatāyapi pārājiko hoti asaṃvāso.
2. Yo pana bhikkhu gāmā vā araññā vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyeyya yathārūpe adin-nādāne rājāno coraṃ gahetvā haneyyuṃ vā ban-dheyyuṃ vā pabbājeyyuṃ vā coro'si bālo'si mūḷho' si theno'sī'ti tathārūpaṃ bhikkhu adinnaṃ ādiyamāno ayampi pārājiko hoti asaṃvāso.
3. Yo pana bhikkhu sañcicca manussavigga-haṃ jīvitā voropeyya satthahārakaṃ vā'ssa pariye-seyya maraṇavaṇṇaṃ vā saṃvaṇṇeyya maraṇāya vā samādapeyya ambho purisa kiṃ tuyh'iminā pāpakena dujjīvitena matante jīvitā seyyo'ti iticittamano citta-saṅkappo anekapariyāyena maraṇavaṇṇaṃ vā saṃ-vaṇṇeyya maraṇāya vā samādapeyya ayampi pārāji-ko hoti asaṃvāso.
4. Yo pana bhikkhu anābhijānaṃ uttarima-nussadhammaṃ attūpanāyikaṃ alamariyaññāṇadas-sanaṃ samudācareyya iti jānāmi iti passāmī'ti tato aparena samayena samanuggāhiyamāno vā asama-nuggāhiyamāno vā āpanno visuddhāpekkho evaṃ vadeyya ajānaṃ evaṃ āvuso avacaṃ jānāmi apas-saṃ passāmi tucchaṃ musāvilapin'ti aññatra adhi-mānā ayampi pārājiko hoti asaṃvāso.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pārājikā dhammā yesaṃ bhikkhu aññataraṃ vā aññataraṃ vā āpajjitvā na labhati bhikkhūhi saddhiṃ saṃvāsaṃ yathā pure tathā pacchā pārājiko hoti asaṃvāso.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etthāyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Pārājikuddeso niṭṭhito.
*
Bạch chư Tôn giả, Bốn pháp triệt khai ở đây phải thuyết giới như sau:
1. Vị Tỳ-kheo nào đã thọ trì học giới và hạnh sống của hàng Tỳ Kheo, khi chưa xả bỏ học giới, chưa bày tỏ sự yếu kém mà hành động dâm dục, thậm chí với loài thú vật, vị ấy bị tội triệt khai bất cộng trụ.
2. Vị Tỳ-kheo nào lấy trộm cắp vật chưa được cho, ở nơi xóm làng hoặc ở rừng, nếu trộm vật như thế nào mà khi vua bắt được kẻ trộm có thể giết hoặc cầm tù hoặc lưu đày, trách rằng: Ngươi là tên trộm, người là kẻ ngu si, ngươi là kẻ sai lạc, ngươi là đạo tặc". Vị Tỳ-kheo khi lấy trộm vật như thế phạm tội triệt khai bất cộng trụ.
3. Vị Tỳ-kheo nào cố ý đoạt mạng sống con người, hoặc tìm phương tiện khí giới cho người, hoặc khen ngợi sự chết, hoặc xúi giục chết, nói rằng: Hỡi người, có ích gì cho ngươi với mạng sống khổ xấu xa này, người nên chết tốt hơn là sống" suy nghĩ tính toán như vậy rồi dùng nhiều cách thức khen ngợi sự chết, xúi giục cho chết, thì vị này phạm tội Triệt khai bất cộng trụ.
4. Vị Tỳ-kheo nào chưa chứng tri lại khoe khoang pháp thượng nhân tự thể nhập tương ứng thánh tri kiến, nói rằng: "Tôi biết tôi thấy như vậy", thời gian sau đó dù có bị thẩm vấn hay không bị thẩm vấn, nhưng muốn được trong sạch bèn nói lại như sau: "Thưa chư hiền, tôi không biết như vậy mà tôi nói tôi biết, tôi không thấy mà nói tôi thấy, thành ra nói dối nói láo." Dù thế vị này cũng phạm tội triệt khai bất cộng trụ, trừ phi tăng thượng mạn.
Thưa chư Tôn giả, bốn pháp triệt khai đã được thuyết giới. Vị Tỳ-kheo phạm bất cứ một điều nào đều không được cộng trú với các vị Tỳ khưu, trước như thế nào thì sau cũng thế ấy, vị đó phạm triệt khai bất cộng trụ.
Ở đây, tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ hai tôi xin hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ ba tôi xin hỏi, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Chư Tôn giả ở đây thanh tịnh do đó mới im lặng,Tôi ghi nhận việc đó là vậy.
DỨT PHẦN THUYẾT GIỚI TRIỆT KHAI.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI TĂNG TÀNG
(Saṅghādisesuddeso)
Ime kho pan'āyasmanto terasa saṅghādise-sā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Sañcetanikā sukkavisaṭṭhi aññatra supi-nantā saṅghādiseso.
2. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena mātugāmena saddhiṃ kāyasaṃsaggaṃ samā-pajjeyya hatthaggāhaṃ vā veṇiggāhaṃ vā aññata-rassa vā aññatarassa vā aṅgassa parāmasanaṃ saṅ-ghādiseso.
3. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena citte-na mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāseyya yathā-taṃ yuvā yuvatiṃ methunūpasañhitāhi saṅghādiseso.
4. Yo pana bhikkhu otiṇṇo vipariṇatena cit-tena mātugāmassa santike attakāmapāricariyāya vaṇṇaṃ bhāseyya etadaggaṃ bhagini pāricariyānaṃ yā mādisaṃ sīlavantaṃ kalyāna dhammaṃ brah-macāriṃ etena dhammena paricareyyā'ti methu-nūpasañhitena saṅghādiseso.
5. Yo pana bhikkhu sañcarittaṃ samāpaj-jeyya itthiyā vā purisamatiṃ purisassa vā itthīmatiṃ jāyattane vā jārattane vā antamaso taṃkhaṇikāya pi saṅghādiseso.
6. Saññācikāya pana bhikkhunā kutiṃ kāra-yamānena assāmikaṃ attuddesaṃ pamāṇikā kāre-tabbā tatridaṃ pamāṇaṃ dīghaso dvādasavidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ sattantarā bhikkhū abhi-netabbā vatthudesanāya tehi bhikkhūhi vatthuṃ desetabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ sāram-bhe ce bhikkhu vatthusmiṃ aparikkamane saññāci-kāya kutiṃ kareyya bhikkhū vā anabhineyya vat-thudesanāya pamāṇaṃ vā atikkāmeyya saṅghādiseso
7. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ kā-rayamānena sassāmikaṃ attuddesaṃ bhikkhū abhi-netabbā vatthudesanāya tehi bhikkhūhi vatthuṃ de-setabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ sārambhe ce bhikkhuvatthusmiṃ aparikkamane mahallakaṃ vihāraṃ kāreyya bhikkhū vā anabhineyya vatthu-desanāya saṅghādiseso.
8- Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto amūlakena pārājikena dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ imamhā brahmacariyā cāveyyan'ti tato aparena samayena samanuggāhi-yamāno vā asamanuggāhiyamāno vā amūlakañceva taṃ adhikaranaṃ hoti bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhāti saṅghādiseso.
9.Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ duṭṭho doso appatīto aññabhāgiyassa adhikaraṇassa kiñci desaṃ lesamattaṃ upādāya pārājikena dhammena anud-dhaṃseyya appeva nāma naṃ imamhā brahmacariyā cāveyyan' ti tato aparena samayena samanuggāhi-yamāno vā asamanuggāhiyamāno vā aññabhāgiyañ-ceva taṃ adhikaranaṃ hoti koci deso lesamatto upādinno bhikkhu ca dosaṃ patiṭṭhāti saṅghādiseso.
10. Yo pana bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya parakkameyya bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaranaṃ samādāya paggayha tittheyya. So bhik-khu bhikkhūhi evam-assa vacanīyo mā āyasmā sa-maggassa saṅghassa bhedāya parakkami bheda-nasaṃvattanikaṃ vā adhikaraṇaṃ samādāya pag-gayha aṭṭhāsi samet'āyasmā saṅghena samaggo hi saṅgho sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharatī' ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva paggaṇheyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvata-tiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭinissaggāya yāva-tatiyañce samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
11. Tass'eva kho pana bhikkhussa bhikkhū honti anuvattakā vaggavādakā eko vā dve vā tayo vā te evaṃ vadeyyuṃ mā āyasmanto etaṃ bhikkhuṃ kiñci avacuttha dhammavādī c'eso bhikkhu c'eso bhikkhu amhākañc'eso bhikkhu chandañca ruciñca ādāya voharati jānāti no bhāsati amhākamp'etaṃ khamatī'ti. Te bhikkhū bhikkhūhi evam-assu vacanī-yā mā āyasmanto evaṃ avacuttha na c'eso bhikkhu dhammavādī na c'eso bhikkhu vinayavādī mā āyas-mantānampi saṅghabhedo rucittha samet' āyasman-tānaṃ saṅghena samaggo hi saṅgho sammodamāno avivadamāno ekuddeso phāsu viharatī'ti. Evañca te bhikkhū bhikkhūhi vuccamānā tath'eva paggaṇhey-yuṃ te bhikkhū bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanubhā-sitabbā tassa paṭinissaggāya. Yāvatatiyañce sa-manubhāsiyamānā taṃ paṭinissajjeyyuṃ iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyyuṃ saṅghādiseso.
12. Bhikkhu pan'eva dubbacajātiko hoti udde-sapariyāpannesu sikkhāpadesu bhikkhūhi saha-dhammikaṃ vuccamāno attānaṃ avacanīyaṃ karoti mā maṃ āyasmanto kiñci avacuttha kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā ahamp'āyasmante na kiñci vakkhāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā viramath' āyamanto mama vacanāyā'ti. So bhikkhu bhikkhūhi evam-assa vaca-nīyo mā āyasmā attānaṃ avacanīyaṃ akāsi vaca-nīyameva āyasmā attānaṃ karotu āyasmāpi bhikkhū vadetu sahadhammena bhikkhūpi āyasmantaṃ vak-khanti sahadhammena evaṃ saṃvaḍḍhā hi tassa bhagavato parisā yadidaṃ aññamaññavacanena añ-ñamaññavuṭṭhāpanenā' ti. Evañca so bhikkhu bhik-khūhi vuccamāno tath'eva paggaṇheyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭi-nissaggāya. Yāvatatiyañce samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
13. Bhikkhu pan' eva aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati kuladūsako pāpasa-mācāro. Tassa kho pāpakā samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni ca tena duṭṭhāni dissanti c'eva suyyanti ca. So bhikkhu bhikkhūhi evam-assa vaca-nīyo āyasmā kho kuladūsako pāpasamācāro āyasmato kho pāpakā samācārā dissanti c'eva suyyanti ca ku-lāni c' āyasmatā duṭṭhāni dissanti c'eva suyyanti ca pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante idha vāsenā' ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno te bhik-khū evaṃ vadeyya chandagāmino ca bhikkhū dosagā-mino ca bhikkhū mohagāmino ca bhikkhū bhayagā-mino ca bhikkhū tādisikāya āpattiyā ekaccaṃ pabbā-jenti ekaccaṃ na pabbā jentī'ti. So bhikkhu bhikkhū-hi evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca na ca bhikkhū chandagāmino na ca bhikkhū dosagāmino na ca bhikkhū mohagāmino na ca bhikkhū bhayagāmi-no āyasmā kho kuladusako pāpasamācāro āyasmato kho pāpakā samācārā dissanti c'eva suyyanti ca kulāni c'āyasmatā duṭṭhāni dissanti c'eva suyyanti ca pakkamat' āyasmā imamhā āvāsā alante idha vāse-nā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno tath' eva paggaṇheyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanubhāsitabbo tassa paṭinissaggāya. Yāvatati-yañce samanubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya icce-taṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya saṅghādiseso.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto terasa saṅghādisesā dhammā nava paṭhamāpattikā cattāro yāvatatiyakā. Yesaṃ bhikkhu aññataraṃ vā aññataraṃ vā āpaj-jitvā yāvatihaṃ jānaṃ paṭicchādeti tāvatihaṃ tena bhikkhunā akāmā parivatthabbaṃ parivutthapari-vāsena bhikkhunā uttariṃ chārattaṃ bhikkhumā-nattāya paṭipajjitabbaṃ. Ciṇṇamānatto bhikkhu yat-tha siyā vīsatigaṇo bhikkhusaṅgho tattha so bhik-khu abbhetabbo. Ekenapi ce ūno vīsatigano bhikkhu-saṅgho taṃ bhikkhuṃ abbheyya so ca bhikkhu anabbhito te ca bhikkhū gārayhā. Ayaṃ tattha sā-mīci.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Saṅghādisesuddeso niṭṭhito.
*
Thưa chư Tôn giả đây là mười ba pháp Tăng tàng được thuyết giới.
1. Cố ý làm di tinh, phạm tăng tàng, ngoại trừ mộng tinh.
2. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, xúc chạm thân người nữ, hoặc nắm tay hoặc nắm tóc hoặc rờ chạm bất cứ chi thể nào, phạm Tăng tàng.
3. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, nói lời tục tĩu với phụ nữ, như thể trai với gái liên hệ dâm dục, phạm Tăng tàng.
4. Tỳ-kheo nào do tâm dục nhiễm dồn nén, đối trước phụ nữ lại ca ngợi sự cung phụng dục lạc cho mình, nói rằng "Này cô em, sự cung phụng này là tối thượng, tức là cô nào với pháp dâm dục cung phụng bậc giới hạnh thiện hạnh phạm hạnh như tôi đây". Bởi liên hệ dâm dục, phạm Tăng tàng.
5. Tỳ-kheo nào làm mai mối, là đem ý người nam nói với người nữ, hoặc đem ý người nữ nói với người nam, để làm vợ chồng hoặc để làm tình nhân, dù chỉ cho họ đến nhau chốc lát, phạm Tăng tàng.
6. Thất liêu do Tỳ-kheo tự quyên góp xây cất, không có thí chủ, tự làm cho mình, thì cần phải làm đúng kích cỡ, trong điều này đúng kích cỡ là mười hai gang chiều dài, bảy gang chiều ngang, theo gang tay Ðức Phật [9] phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi chốn được tỳ-kheo ấy chỉ định là chỗ không có trở ngại, có lối thông. Nếu vị Tỳ-kheo làm thất liêu do tự quyên góp, làm ở chỗ có trở ngại, không lối thông, cũng không mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, vượt quá kích cỡ, phạm Tăng Tàng.
7. Tịnh xá lớn mà Tỳ-kheo xây dựng cho mình, có thí chủ cúng, phải mời chư Tỳ-kheo để chỉ định nơi chốn, nơi chốn được các Tỳ-kheo ấy chỉ định là chỗ không có trở ngại, có lối thông; nếu vị Tỳ-kheo làm tịnh xá lớn ở nơi có điều trở ngại, không lối thông, lại không mời các Tỳ-kheo để chỉ định nơi chỗ, phạm Tăng Tàng.
8. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vu khống vị Tỳ-kheo với tội triệt khai không căn cứ, nghĩ rằng làm vị ấy bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, có bị gạn hỏi hay chưa được gạn hỏi, sự tố tụng ấy là vô căn cứ và dù Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi lầm vẫn phạm Tăng Tàng.
9. Tỳ-kheo nào phẫn nộ sân hận bất bình, vịn cớ nhỏ nào đó của một sự vụ khác rồi vu khống vị Tỳ-kheo với tội triệt khai, nghĩ rằng làm vị ấy bại hoại phạm hạnh này. Sau lúc đó, bị gạn hỏi hay chưa được gạn hỏi, nhưng sự tố tụng ấy là sự vụ khác được vịn lấy cớ nhỏ, và Tỳ-kheo này có nhìn nhận lỗi lầm vẫn phạm Tăng Tàng.
10. Tỳ-kheo nào cố gắng phá vỡ hòa hợp Tăng, hoặc sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ; Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như sau: "Tôn giả chớ cố gắng phá vỡ hòa hợp tăng, hay đừng sống chấp giữ tranh sự dẫn đến chia rẽ, Tôn giả hãy đoàn kết với tăng, vì Tăng hòa hòa hợp hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng quan điểm, sẽ trú an lạc". Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà vẫn cố chấp như thế Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ, phạm Tăng Tàng.
11. Những vị Tỳ-kheo tùng bọn phe đảng của Tỳ-kheo chia rẽ ấy, có một, hoặc hai, hoặc ba vị; họ nói như sau: "Chư Tôn giả chớ nói gì vị Tỳ-kheo ấy, tỳ-kheo đó là bậc thuyết pháp, thuyết luật, Tỳ-kheo đó lấy điều tâm tư nguyện vọng của chúng tôi mà tỏ bày cảm thông và nói ra theo chúng tôi, vả lại chúng tôi cũng chấp nhận". Các Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo rằng: "Các Tôn giả đừng nói như vậy, Tỳ-kheo đó không phải là vị thuyết pháp, thuyết luật, các Tôn giả chớ vui thích chia rẽ tăng, các Tôn giả hãy đoàn kết với Tăng, vì Tăng hòa hợp, hoan hỷ nhau, không tranh cãi, đồng quan điểm, sẽ trú an lạc." Các vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà vẫn cố chấp thì các Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Nếu khi được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ, phạm Tăng Tàng.
12. Vị Tỳ-kheo có tánh khó dạy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp theo những điều học liên quan giới bổn, tỏ ra mình không cần khuyên dạy rằng: "Các Tôn giả đừng nói chi đến tôi điều tốt hay xấu, tôi cũng không nói gì đến các Tôn giả điều tốt hay điều xấu; các Tôn giả hãy thôi khuyên dạy tôi". Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo nói như sau:
"Xin Tôn giả chớ tỏ ra mình khó dạy, hãy làm người dễ dạy; Tôn giả hãy nhắc bảo chư Tỳ-kheo theo đúng pháp, chư Tỳ-kheo cũng sẽ nhắc bảo Tôn giả theo đúng pháp, như vậy hội chúng của Ðức Thế Tôn được tăng thịnh tức là nhờ sự nhắc bảo lẫn nhau, thức tỉnh lẫn nhau". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như vậy mà vẫn cố chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ, phạm Tăng Tàng.
13. Vị Tỳ-kheo sống nương làng mạc hay thị trấn nào đó, làm nhơ nhà người, có hành vi xấu; những hành vi xấu của vị ấy đều được thấy được nghe, các tục gia bị vị ấy làm nhơ cũng đều được thấy được nghe. Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên nhắc như sau: "Tôn giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu của Tôn giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng đều được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này; đủ rồi cuộc sống của ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy lại nói với chư Tỳ-kheo như sau; "chư Tỳ-kheo là tây vị thương, chư Tỳ-kheo tây vị ghét, chư Tỳ-kheo tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo tây vị sợ hãi; tội phạm như nhau mà có người đuổi đi, có người không đuổi". Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như vầy: "Tôn giả chớ có nói như vậy, chư Tỳ-kheo không tây vị thương, chư Tỳ-kheo không tây vị ghét, chư Tỳ-kheo không tây vị dốt nát, chư Tỳ-kheo không tây vị sợ hãi đâu; Tôn giả là kẻ làm nhơ nhà người, có hành vi xấu, những hành vi xấu của Tôn giả đều được thấy được nghe, các tục gia bị Tôn giả làm nhơ cũng đều được thấy được nghe; Tôn giả hãy đi khỏi chỗ này! đủ rồi cuộc sống của ông tại đây!". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc nhở như vậy mà vẫn cố chấp thế ấy thì vị Tỳ-kheo đó cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ sự ấy. Nếu được can gián ba lần mà bỏ sự ấy thì tốt, nếu không bỏ, phạm tăng tàng.
Bạch chư Tôn giả, mười ba pháp tăng tàng đã được thuyết giới; có chín điều phạm ngay lúc đầu, bốn điều phạm sau ba lần can gián, vị Tỳ-kheo vi phạm bất cứ điều nào, biết mà che giấu đến bao nhiêu ngày thì Tỳ-kheo ấy phải bị biệt trú cưỡng bức bấy nhiêu ngày; Tỳ-kheo đã mãn hạ biệt trú cần phải thực hành thêm sáu đêm tự hối. Tỳ-kheo đã đủ thời tự hối, vị ấy phải được phục vị tại nơi mà có Tỳ-kheo Tăng túc số hai mươi vị. Nếu Tỳ-kheo Tăng thiếu túc số hai mươi, dù chỉ thiếu một, lại phục vị cho Tỳ-kheo ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy vẫn không được phục vị, còn chư Tỳ-kheo kia đáng quở trách. Ðây là cách hợp thức hóa.
Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các ngài có thanh tịnh chăng? Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng? Lần thứ ba, tôi hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng? Chư Tôn giả được thanh tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận việc đó là vậy.
DỨT THUYẾT GIỚI TĂNG TÀNG.
--ooOoo--
THUYẾT GIỚI BẤT ÐỊNH
(Aniyatuddeso)
Ime kho pan'āyasmanto dve aniyatā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya raho paṭicchanne āsane alaṅkammaniye nis-sajjaṃ kappeyya tamenaṃ saddheyyavacasā upāsikā disvā tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena vadeyya pārā-jikena vā saṅghādisesena vā pācittiyena vā nisajjaṃ bhikkhu paṭijānamāno tiṇṇaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo pārājikena vā saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayaṃ dhammo aniyato.
2. Na h'eva kho pana paṭicchannaṃ āsanaṃ hoti n'ālaṅkammaniyaṃ alañca kho hoti mātugāmaṃ duṭṭhullāhi vācāhi obhāsituṃ. Yo pana bhikkhu tathārūpe āsane mātugāmena saddhiṃ eko ekāya raho nisajjaṃ kappeyya tamenaṃ saddheyyavacasā upāsikā disvā dvinnaṃ dhammānaṃ aññatarena vadeyya saṅghādisesena vā pācittiyena vā nisajjaṃ bhikkhu paṭijānamāno dvinnaṃ dhammānaṃ añña-tarena kāretabbo saṅghādisesena vā pācittiyena vā yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya tena so bhikkhu kāretabbo. Ayampi dhammo aniyato.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto dve aniyatā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Aniyatuddeso niṭṭhito.
*
Thưa Tôn giả, Ðây là hai pháp bất định được thuyết giới:
1. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với một, ngồi ở nơi che đậy kín đáo, chỗ có thể hành động quấy có người cận sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một tội nào trong ba tội là triệt khai hoặc Tăng tàng hoặc ưng đối trị; và nếu vị Tỳ-kheo thú nhận có ngồi thật thì cần xử trị theo một tội nào trong ba tội là triệt khai hoặc tăng tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy tố cáo ngay tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây là pháp bất định.
2. Mặc dù chỗ ngồi không che kín đáo, chỗ không thể hành động quấy, nhưng là nơi đủ để chọc ghẹo người nữ bằng lời dâm tục. Vị Tỳ-kheo nào cùng với người nữ, một với một ngồi ở nơi khuất vắng như thế; có người cận sự nữ tín ngôn thấy được bèn tố cáo một tội nào trong hai tội là tăng tàng hoặc ưng đối trị, và nếu vị Tỳ-kheo thú nhận có ngồi thật thì cần xử trị theo một tội nào trong hai tội là tăng tàng hoặc ưng đối trị. Bằng như người cận sự nữ tín ngôn ấy tố cáo ngay tội nào thì vị Tỳ-kheo ấy phải được xử theo tội đó. Ðây cũng là pháp bất định.
Bạch chư Tôn giả, hai pháp bất định đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ nhì, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng?
Lần thứ ba, tôi xin hỏi, các ngài có thanh tịnh chăng?
Ở đây các Tôn giả được thanh tịnh bởi thế mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó là vậy.
DỨT THUYẾT GIỚI BẤT ÐỊNH.
-ooOoo-
THUYỀT GIỚI ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ
(Nissaggiyapācittiye vitthāruddeso)
Ime kho pan'āyasmanto tiṃsa nissaggiyā pā-cittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ kaṭhine dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ dhāre-tabbaṃ taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
2. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ kaṭhine ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vip-pavaseyya aññatra bhikkhu sammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
3. Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunā ubbhatas-miṃ kaṭhine bhikkhuno pan'eva akālacīvaraṃ uppaj-jeyya ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ paṭiggahetvā khippameva kāretabbaṃ no c'assa pā-ripūri māsaparamantena bhikkhunā taṃ cīvaraṃ nikkhipitabbaṃ ūnassa pāripūriyā satiyā paccāsāya. Tato ce utariṃ nikkhipeyya satiyāpi paccāsāya nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
4. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā purāṇacīvaraṃ dhovāpeyya vā rajāpeyya vā ākoṭā-peyya vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
5. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā hatthato cīvaraṃ paṭigganheyya aññatra pārivaṭṭa-kā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
6. Yo pana bhikkhu aññātakaṃ gahapaṭiṃ vā gahapatāniṃ vā cīvaraṃ viññāpeyya aññatra samayā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Tath' āyaṃ samayo acchin-nacīvaro vā hoti bhikkhu naṭṭhacīvaro vā. Ayaṃ tattha samayo.
7. Tañce aññātako gahapati vā gahapatānī vā bahūhi cīvarehi abhihaṭṭhuṃ pavāreyya santarut-taraparamantena bhikkhunā tato cīvaraṃ sāditab-baṃ tato ce uttariṃ sādiyeyya nissaggiyaṃ pācit-tiyaṃ.
8. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa aññātakassa gahapatissa vā gahapatāniyā vā cīvaracetāpanaṃ upakkhataṃ hoti: Iminā cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena acchā-dessāmī'ti. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya sādhu va-ta maṃ āyasmā iminā cīvaracetāpanena evarūpaṃ vā evarūpaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādehī'ti kal-yānakamyataṃ upādāya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
9. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa ubhinnaṃ añ-ñatakānaṃ gahapatīnaṃ vā gahapatānīnaṃ vā pac-cekacīvaracetāpanā upakkhatā honti imehi mayaṃ paccekacīvaracetāpanehi paccekacīvarāni cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarehi acchādessāmā'ti. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkami-tvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya sādhu vata maṃ ayasmanto imehi paccekacīvaracetāpanehi evarūpaṃ vā evarūpaṃ vā cīvaraṃ cetāpetvā acchādetha ubho va santā ekenāti kalyānakamyataṃ upādāya nissag-giyaṃ pācittiyaṃ.
10. Bhikkhuṃ pan'eva uddissa rājā vā rāja-bhoggo vā brāhmaṇo vā gahapatiko vā dūtena cīva-racetāpanaṃ pahineyya iminā cīvaracetāpanena cīvaraṃ cetāpetvā Itthannāmaṃ bhikkhuṃ cīvarena acchādehī' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ upasaṅka-mitvā evaṃ vadeyya idaṃ kho bhante āyasmantaṃ uddissa cīvaracetāpanaṃ ābhataṃ paṭigganhātu āyasmā cīvaracetāpanan'ti. Tena bhikkhunā so dū-to evam-assa vacanīyo na kho mayaṃ āvuso cīva-racetāpanaṃ paṭigganhāma cīvarañca kho mayaṃ paṭiggaṇhāma kālena kappiyan' ti. So ce dūto taṃ bhikkhuṃ evaṃ vadeyya atthi pan'āyasmato koci veyyāvaccakaro'ti. Cīvaratthikena bhikkhave bhik-khunā veyyāvaccakaro niddisitabbo ārāmiko vā upā-sako vā eso kho āvuso bhikkhūnaṃ veyyāvaccaka-ro'ti. So ce dūto taṃ veyyāvaccakaraṃ saññāpetvā taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā evaṃ vadeyya yaṃ kho bhante āyasmā veyyāvaccakaraṃ niddisi sañ-ñatto so mayā upasaṅkamatu āyasmā kālena cīvare-na taṃ acchādessatī'ti cīvaratthikena bhikkhave bhikkhunā veyyāvaccakaro upasaṅkamitvā dvittik-khattuṃ codetabbo sāretabbo attho me āvuso cīva-renā'ti. Dvittikkhattuṃ codayamāno sārayamāno taṃ cīvaraṃ abhinipphādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce abhinipphādeyya catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chak-khattuparamaṃ tuṇhībhūtena uddissa ṭhātabbaṃ. Catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhattuparamaṃ tuṇhīhūto uddissa tiṭṭhamāno taṃ cīvaraṃ abhinip-phādeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce abhinipphādeyya tato ce uttariṃ vāyamamāno taṃ cīvaraṃ abhinip-phādeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. No ce abhinip-phādeyya yat'assa cīvaracetāpanaṃ ābhataṃ tattha sāmaṃ vā gantabbaṃ dūto vā pāhetabbo yaṃ kho tumhe āyasmanto bhikkhuṃ udissa cīvaracetāpanaṃ pahinittha na taṃ tassa bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhoti yuñjant' āyasmanto sakaṃ mā vo sakaṃ vinassā' ti. Ayaṃ tattha samīci.
Cīvaravaggo paṭhamo
11. Yo pana bhikkhu kosiyamissakaṃ santha-taṃ karāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
12. Yo pana bhikkhu suddhakāḷakānaṃ eḷa-kalomānaṃ santhataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ pācit-tiyaṃ.
13. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kāra-yamānena dve bhāgā suddhakāḷakānaṃ eḷakalomā-naṃ ādātabbā tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocari-yānaṃ. Anādā ce bhikkhu dve bhāge suddhakāḷa-kānaṃ eḷakalomānaṃ tatiyaṃ odātānaṃ catutthaṃ gocariyānaṃ navaṃ santhataṃ kārāpeyya nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
14. Navaṃ pana bhikkhunā santhataṃ kārā-petvā chabbassāni dhāretabbaṃ. Orena ce channaṃ vassānaṃ taṃ santhataṃ vissajjetvā vā avissajjetvā vā aññaṃ navaṃ santhataṃ kārāpeyya aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
15. Nisīdanasanthataṃ pana bhikkhunā kāra-yamānena purāṇasanthatassa sāmantā sugatavidat-thi ādātabbā dubbaṇṇakaraṇāya. Anādā ce bhikkhu purāṇasanthatassa sāmantā sugatavidatthiṃ navaṃ nisīdanasanthataṃ kārāpeyya nissaggiyaṃ pācit-tiyaṃ.
16. bhikkhuno paneva addhānamaggappaṭi-pannassa eḷakalomāni uppajjeyyuṃ ākaṅkhamānena bhikkhunā paṭiggahetabbāni paṭiggahetvā tiyojana-paramaṃ sahatthā hāretabbāni asante hārake. Tato ce uttariṃ hareyya asantepi hārake nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
17. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhu-niyā eḷakalomāni dhovāpeyya vā rajāpeyya vā vija-tāpeyya vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
18. Yo pana bhikkhu jātarūparajataṃ uggaṇ-heyya vā uggaṇhāpeyya vā upanikkhittaṃ vā sādi-yeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
19. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ rūpi-yasaṃvoharaṃ samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācitti-yaṃ.
20. Yo pana bhikkhu nānappakārakaṃ kaya-vikkayaṃ samāpajjeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Kosiyavaggo dutiyo.
21. Dasāhaparamaṃ atirekapatto dhāretabbo taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
22. Yo pana bhikkhu ūnapañcabandhanena pattena aññaṃ navaṃ pattaṃ cetāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ. Tena bhikkhunā so patto bhikkhupari-sāya nissajjitabbo yo ca tassā bhikkhuparisāya pattapariyanto so ca tassa bhikkhuno padātabbo ayante bhikkhu patto yāva bhedanāya dhāretabbo' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
23. Yāni kho pana tāni gilānānaṃ bhik-khūnaṃ patisāyanīyāni bhesajjāni seyyathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ tāni paṭiggahetvā sattāhaparamaṃ sannidhikārakaṃ paribhuñjitabbāni taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
24. Māso seso gimhānanti bhikkhunā vassi-kasātikacīvaraṃ pariyesitabbaṃ aḍḍdhamāso seso gimhānanti katvā nivāsetabbaṃ. Orena ce māso seso gimhānanti vassikasātikacīvaraṃ pariyeseyya oren' aḍḍdhamāso seso gimhānanti katvā nivāseyya nis-saggiyaṃ pācittiyaṃ.
25. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sāmaṃ cīva-raṃ datvā kupito anattamāno acchindeyya vā acchin-dāpeyya vā nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
26. Yo pana bhikkhu sāmaṃ suttaṃ viññā-petvā tantavāyehi cīvaraṃ vāyāpeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
27. Bhikkhum pan'eva uddissa aññātako ga-hapati vā gahapatānī vā tantavāyehi cīvaraṃ vāyā-peyya. Tatra ce so bhikkhu pubbe appavārito tanta-vāye upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya idaṃ kho āvuso cīvaraṃ maṃ uddissa vīyati āyatañ ca ka-rotha vitthatañca appitañca suvītañca suppavāyi-tañca suvilekhitañca suvitacchitañca karotha appeva nāma mayampi āyasmantānaṃ kiñci mattaṃ anup-padajjeyyāmā'ti. Evañca so bhikkhu vatvā kiñci mat-taṃ anuppadajjeyya antamaso piṇḍapātamattampi nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
28. Dasāhānāgataṃ kattikatemāsipuṇṇamaṃ bhikkhuno paneva accekacīvaraṃ uppajjeyya acce-kaṃ maññamānena bhikkhunā paṭiggahetabbaṃ pa-ṭiggahetvā yāvacīvarakālasamayaṃ nikkhipitabbaṃ. Tato ce uttariṃ nikkhipeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
29. Upavassaṃ kho pana kattikapuṇṇamaṃ yāni kho pana tāni āraññakāni senāsanāni sāsaṅ-kasammatāni sappaṭibhayāni tathārūpesu bhikkhu senāsanesu viharanto ākaṅkhamāno tiṇṇaṃ cīvarā-naṃ aññataraṃ cīvaraṃ antaraghare nikkhipeyya siyā ca tassa bhikkhuno koci-d-eva paccayo tena cīvarena vippavāsāya chārattaparamantena bhikkhu-nā tena cīvarena vippavasitabbaṃ tato ce uttariṃ vippavaseyya aññatra bhikkhusammatiyā nissaggi-yaṃ pācittiyaṃ.
30. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ pariṇataṃ attano pariṇāmeyya nissaggiyaṃ pācittiyaṃ.
Pattavaggo tatiyo.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Nissaggiyā pācittiyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là ba mươi pháp ưng xả đối trị được thuyết giới.
PHẨM 1: PHẨM Y
1. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả Tỳ-kheo chỉ được cất giữ y dư lâu lắm là mười ngày, quá hạn ấy phạm ưng xả đối trị.
2. khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả nếu Tỳ-kheo xa lìa tam y, dù chỉ một đêm, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ Tỳ-kheo được cho phép.
3. Khi y đã làm xong, hạn Kaṭhina đã xả có vải y ngoại thời phát sanh cho vị Tỳ khưu, Tỳ-kheo cần thì được nhận, nhận xong phải nhanh chóng may mặc, nếu không đủ vải thì y ấy Tỳ-kheo chỉ nên giữ lại lâu lắm là một tháng để đợi bù vào chỗ thiếu; nếu giữ lại quá hạn ấy dù có mong tìm, cũng phạm ưng xả đối trị.
4. Tỳ-kheo nào khiến Tỳ-kheo ni không phải thân quyến, giặt hoặc nhuộm hoặc vắt xả y cũ, phạm ưng xả đối trị.
5. Tỳ-kheo nào thọ nhận y từ tay tỳ-kheo ni không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ trao đổi.
6. Tỳ-kheo nào xin y nơi nam gia chủ, hoặc nữ gia chủ không phải thân quyến, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp là Tỳ-kheo y bị cướp đoạt hoặc y bị hư hoại, đây là trường hợp trong điều này vậy.
7. Nếu có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải thân quyến xin được dâng tặng nhiều y đến Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo chỉ nên vui nhận nhiều lắm là bộ nội ngoại y thôi, nếu thích hơn số ấy, phạm ưng xả đối trị.
8. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải thân quyến để dành tiền sắm y cho vị Tỳ khưu, nghĩ rằng: "Ta sẽ mua sắm y với tiền sắm y này rồi dâng y cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc" Trong việc này nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa được yêu cầu trước mà đi đến kèo nài việc y như sau: "tốt lắm, Ðạo hữu hãy sắm y như vầy, dâng cho tôi mặc". Vì muốn đẹp, phạm ưng xả đối trị.
9. Có hai nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải thân quyến để dành tiền sắm y cổ phần dâng cho vị Tỳ khưu, nghĩ rằng: "Chúng ta sẽ lấy cổ phần tiền sắm y này mà mua y cổ phần rồi dâng vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Trong việc này, nếu vị Tỳ-kheo ấy chưa được yêu cầu trước mà đi đến kéo nài việc y như sau: "Tốt lắm, các đạo hữu hãy lấy các cổ phần tiền sắm y nầy mà mua y như vầy, như vầy, dâng cho tôi mặc, hai người chung một" Vì muốn đẹp, phạm ưng xả đối trị
10. Ðức vua, quan lại, bà-la-môn hoặc gia chủ gởi theo sứ giả số tiền sắm y, nói rằng: "Ngươi hãy lấy số tiền sắm y này mua y rồi dâng cho vị Tỳ-kheo tên ấy mặc". Nếu vị sứ giả ấy đi đến vị Tỳ-kheo nọ và nói như sau: "Bạch Tôn giả, số tiền sắm y này được để dành cho Ngài, xin Ngài hãy nhận lãnh số tiền sắm y" vị Tỳ-kheo nọ nên bảo sứ giả rằng: "Này đạo đạo hữu, chúng tôi không thọ nhận tiền sắm y, chúng tôi chỉ nhận lãnh y hợp thời thôi"Nếu vị sứ giả ấy nói với vị Tỳ-kheo nọ rằng: "Có ai là người phục dịch cho Tôn giả chăng?"
Nầy chư Tỳ khưu, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y thì nên chỉ ra người phục dịch hoặc người hộ tự hoặc một cận sự nam: này đạo hữu, đó là người phục dịch của chư Tỳ khưu". Nếu vị sứ giả ấy giao việc cho người phục dịch kia rồi, bèn đến vị Tỳ-kheo nọ mà nói như sau: "Bạch Tôn giả, người phục dịch mà Ngài đã chỉ ra, người ấy được tôi giao việc rồi, Tôn giả hãy đến họ và họ sẽ dâng y hợp thời cho Ngài mặc".
Nầy chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo có nhu cầu y nên đến người phục dịch mà thông báo gợi ý đôi ba lần rằng: "Ðạo hữu, tôi cần y". Khi thông báo gợi ý đôi ba lần, có được y ấy, như thế là tốt; bằng không thành thì phải đứng im lặng trước mặt họ bốn năm lần; nhiều lắm là sáu lần; khi đứng im lặng trước họ bốn, năm, sáu lần mà có được y ấy như thế là tốt, nếu không thành mà cố gắng vượt quá hạn ấy, thành tựu y, phạm ưng xả đối trị. Nếu vẫn không thành thì từ đâu đưa tiền sắm y, phải tự mình đến đấy hoặc phái người đi, nói rằng: "các đạo hữu, tiền sắm y mà các ông đã gởi để dâng vị Tỳ-kheo, tiền đó không thành tựu lợi ích gì cho vị Tỳ-kheo ấy; các ông hãy đòi lại vật sở hữu, đừng bỏ phí vật sở hữu của các ông". Ðây là cách làm đúng trong trường hợp này.
PHẨM 2: PHẨM TƠ TẰM
11. Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ trộn lẫn tơ tằm, phạm ưng xả đối trị.
12.Vị Tỳ-kheo nào khiến làm ngọa cụ toàn bằng lông cừu màu đen, phạm ưng xả đối trị.
13. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới phải lấy lông cừu hai phần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu đỏ. Nếu vị Tỳ-kheo khiến làm ngọa cụ mới mà không lấy lông cừu hai phần đen, phần thứ ba trắng, phần thứ tư đỏ, phạm ưng xả đối trị.
14. Khi đã cho làm ngọa cụ mới, vị Tỳ-kheo phải giữ xài đến sáu năm. Nếu dưới sáu năm mà bỏ ngọa cụ ấy, hoặc không bỏ, rồi khiến làm ngọa cụ mới khác, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
15. Khi vị Tỳ-kheo khiến làm tọa cụ phải lấy một mảnh vuông của tấm tọa cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để làm hoại sắc. Nếu vị Tỳ kheo khiến làm tọa cụ mới mà không lấy một mảnh vuông của tấm tọa cụ cũ, cỡ gang tay Ðức Phật, để hoại sắc, phạm ưng xả đối trị.
16. Khi vị Tỳ-kheo đi đường xa có phát sanh lông cừu, nếu cần thì nhận; khi nhận rồi, không có người mang giúp, thì chỉ nên tự mình mang đi xa lắm là ba do tuần [10] nếu không có người mang giúp mà tự mang đi quá giới hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
17. Vị Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo ni không phải thân nhân, giặt hoặc nhuộm hoặc chải lông cừu, phạm ưng xả đối trị.
18. Vị Tỳ-kheo nào nhận lấy vàng và bạc, hoặc sai nhận lấy, hoặc vui thích của để dành cho, phạm ưng xả đối trị.
19. Vị Tỳ-kheo nào dự việc mậu dịch tài sản bằng mọi hình thức phạm ưng xả đối trị.
20. Vị Tỳ-kheo nào dự việc thương mãi bằng mọi hình thức, phạm ưng xả đối trị.
PHẨM 3: PHẨM BÌNH BÁT
21. Bình bát dư chỉ nên giữ lâu lắm là mười ngày, vượt quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
22. Vị Tỳ-kheo nào có bình bát nứt bể chưa tới năm dấu mà sắm tìm bình bát mới khác, phạm ưng xả đối trị. Bình bát ấy cần được vị Tỳ-kheo đó xả bỏ giữa hội chúng Tỳ-kheo; bình bát nào là bát cuối cùng của hội chúng tỳ-kheo ấy, bát đó nên giao cho vị Tỳ-kheo đó, bảo rằng; Này Tỳ-kheo, đây là bình bát của Ngài, cần phải giữ cho đến khi bể thôi". Ðây là cách hợp thức trong việc này.
23. Các thứ thuốc cần dùng mà để cho các vị Tỳ-kheo bệnh, như là bơ đặc, bơ tươi, dầu mè, mật ong, nước đường; sau khi thọ nhận chỉ nên cất giữ thọ dùng lâu lắm là bảy ngày, quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
24. Còn một tháng cuối mùa nóng, Tỳ-kheo nên tìm kiếm y tắm mưa; nửa tháng cuối mùa nóng, mới nên may mặc. Nếu chưa đến tháng cuối mùa nóng mà tìm kiếm y tắm mưa, chưa đến nửa tháng cuối mùa nóng mà may mặc, phạm ưng xả đối trị.
25. Tỳ-kheo nào chính mình đã cho y đến vị Tỳ-kheo rồi giận hờn bất bình mà cướp lại, hoặc sai cướp lại, phạm ưng xả đối trị.
26. Tỳ-kheo nào chính mình xin chỉ vải rồi biểu thợ dệt, dệt thành y, phạm ưng xả đối trị.
27. Có nam gia chủ hay nữ gia chủ không phải quyến thuộc, biểu thợ dệt y để dâng vị Tỳ khưu. Trường hợp này nếu vị Tỳ-kheo ấy khi không được yêu cầu trước mà đi đến các thợ dệt, kèo nài việc y, rằng: "Ðạo hữu, y này được dệt cho tôi, vậy ông hãy làm khổ dài, khổ rộng, làm cho khít khao, đều đặn, dẻ dặt, mịn màng, mướt láng; chúng tôi sẽ ban thưởng cho các đạo hữu thêm chút ít cái chi nhé!" vị Tỳ-kheo ấy nói như vậy rồi ban thưởng cho chút gì đó, thậm chí chỉ là vật thực, cũng phạm ưng xả đối trị.
28. Còn mười ngày nữa sẽ đến ngày rằm tháng Kattikatemāsikā [11] (tháng 9 âl), có biệt thí y [12] phát sanh đến vị Tỳ khưu; vị Tỳ-kheo nghĩ là y biệt thí thì được nhận, khi nhận rồi chỉ nên cất giữ trong hạn kỳ y [13], nếu quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị.
29. Ðến ngày rằm tháng 9 âl (kattikapuṇ-ṇamī) mãn an cư, như ở rừng, chỗ bị khả nghi, có nguy hiểm vị Tỳ-kheo trú ngụ những trú xứ như vậy, nếu muốn gởi lại trong xóm một y nào trong tam y, vì có duyên cớ chi cho vị Tỳ-kheo ấy xa lìa y đó; thì vị Tỳ-kheo chỉ nên xa lìa y đó lâu lắm là sáu đêm, quá hạn ấy, phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
30. vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc đã hiến thuộc về Tăng lại sang đoạt về mình, phạm ưng xả đối trị.
Bạch chư Tôn giả, ba mươi pháp ưng xả đối trị đã được tổng thuyết. Ở đây, tôi xin hỏi các Tôn giả, các ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Tôn giả, các ngài được thanh tịnh chăng? Lần thứ ba, tôi xin hỏi các Tôn giả, các ngài được thanh tịnh chăng?
Chư Tôn giả trong đây thanh tịnh, do đó im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc này như vậy.
DỨT PHÁP ƯNG XẢ ÐỐI TRỊ.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ƯNG ÐỐI TRỊ
(Pācittiye vitthāruddeso)
Ime kho pan' āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Sampajānamusāvāde pācittiyaṃ.
2. Omasavāde pācittiyaṃ.
3. bhikkhupesuññe pācittiyaṃ.
4. Yo pana bhikkhu anupasampannaṃ padaso dhammaṃ vāceyya pācittiyaṃ.
5. Yo pana bhikkhu anupasampannena utta-ridvirattatirattaṃ saha seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
6. Yo pana bhikkhu mātugāmena saha sey-yaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
7. Yo pana bhikkhu mātugāmassa uttarichap-pañcavācāhi dhammaṃ deseyya aññatra viññunā purisaviggahena pācittiyaṃ.
8. Yo pana bhikkhu anupasampannassa utta-rimanussadhammaṃ āroceyya bhūtasmiṃ pācitti-yaṃ.
9. Yo pana bhikkhu bhikkhussa duṭṭhullaṃ āpattiṃ anupasampannassa āroceyya aññatra bhik-khusammatiyā pācittiyaṃ.
10. Yo pana bhikkhu paṭhaviṃ khaṇeyya vā khaṇāpeyya vā pācittiyaṃ.
Musāvādavaggo paṭhamo.
11. Bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ.
12. Aññavādake vihesake pācittiyaṃ.
13. Ujjhāpanake khīyanake pācittiyaṃ.
14. Yo pana bhikkhu saṅghikaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā bhisiṃ vā kocchaṃ vā ajjhokāse santha-ritvā vā santharāpetvā vā taṃ pakkamanto n'eva uddhareyya na uddharāpeyya anāpucchaṃ vā gac-cheyya pācittiyaṃ.
15. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre seyyaṃ santharitvā vā santharāpetvā vā taṃ pakkamanto n'eva uddhareyya na uddharāpeyya anāpucchaṃ vā gaccheyya pācittiyaṃ.
16. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre jānaṃ pubbūpagataṃ bhikkhuṃ anupakhajja seyyaṃ kap-peyya yassa sambādho bhavissati so pakkamissatī'ti etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
17. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ kupito anat-tamano saṅghikā vihārā nikkaḍḍheyya vā nikkaḍ-ḍhāpeyya vā pācittiyaṃ.
18. Yo pana bhikkhu saṅghike vihāre upari-vehāsakuṭiyā āhaccapādakaṃ mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā abhinisīdeyya vā abhinipajjeyya vā pācittiyaṃ.
19. Mahallakaṃ pana bhikkhunā vihāraṃ kārayamānena yāva dvārakosā aggalaṭṭhapanāya ālo-kasandhiparikammāya dvitticchadanassa pariyāyaṃ appaharite ṭhitena adhiṭṭhātabbaṃ. Tato ce uttariṃ appaharitepi ṭhito adhiṭṭhaheyya pācittiyaṃ.
20. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ uda-kaṃ tiṇaṃ vā mattikaṃ vā siñceyya vā siñcāpeyya vā pācittiyaṃ.
Bhūtagāmavaggo dutiyo.
21. Yo pana bhikkhu asammato bhikkhuniyo ovadeyya pācittiyaṃ.
22. Sammatopi ce bhikkhu atthaṅgate suriye bhikkhuniyo ovadeyya pācittiyaṃ.
23. Yo pana bhikkhu bhikkhunūpassayaṃ upasaṅkamitvā bhikkhuniyo ovadeyya aññatra sama-yā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo gilānā hoti bhik-khunī ayaṃ tattha samayo.
24. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya āmisahe-tu bhikkhū bhikkhuniyo ovadantī'ti pācittiyaṃ.
25. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuni-yā cīvaraṃ dadeyya aññatra parivaṭṭakā pācittiyaṃ.
26. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā cīvaraṃ sibbeyya vā sibbāpeyya vā pācittiyaṃ.
27. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya antama-so gāmantarampi aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo satthagamaniyo hoti maggo sāsaṅka-sammato sappaṭibhayo. Ayaṃ tattha samayo.
28. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ saṃvidhāya ekanāvaṃ abhirūheyya uddhagāminiṃ vā adhogāminiṃ vā aññatra tiriyantaraṇāya pācit-tiyaṃ.
29. Yo pana bhikkhu jānaṃ bhikkhunīpari-pācitaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjeyya aññatra pubbe gihisa-mārambhā pācittiyaṃ.
30. Yo pana bhikkhu bhikkhuniyā saddhiṃ eko ekāya raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
Ovādavaggo tatiyo.
31. Agilānena bhikkhunā eko āvasathapiṇḍo bhuñjitabbo tato ce uttariṃ bhuñjeyya pācittiyaṃ.
32. Gaṇabhojane aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvaradānasamayo cīvarakārasamayo addhānagamanasamayo nāvābhi-rūhanasamayo mahāsamayo samaṇabhattasamayo. Ayaṃ tattha samayo.
33. Paramparabhojane aññatra samayā pācit-tiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo gilānasamayo cīvara-dānasamayo cīvarakārasamayo. Ayaṃ tattha samayo.
34. Bhikkhu pan'eva kulaṃ upagataṃ pūvehi vā manthehi vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya. Ākaṅkha-mānena bhikkhunā dvittipattapūrā paṭiggahetabbā. Tato ce uttariṃ paṭiggaṇheyya pācittiyaṃ. Dvittipat-tapūre paṭiggahetvā tato nīharitvā bhikkhūhi sad-dhiṃ saṃvibhajitabbaṃ. Ayaṃ tattha sāmīci.
35. Yo pana bhikkhu bhuttāvī pavārito ana-tirittaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
36. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhuttāviṃ pavāritaṃ anatirittena khādanīyena vā bhojanīyena vā abhihaṭṭhuṃ pavāreyya handa bhikkhu khāda vā bhuñja vā'ti jānaṃ āsādanāpekkho bhuttasmiṃ pācit-tiyaṃ.
37. Yo pana bhikkhu vikāle khādanīyaṃ vā bhojnīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
38. Yo pana bhikkhu sannidhikārakaṃ khā-danīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā khādeyya vā bhuñjeyya vā pācittiyaṃ.
39. Yāni kho pana tāni paṇītabhojanāni sey-yathīdaṃ sappi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ maccho maṃsaṃ khīraṃ dadhi. Yo pana bhikkhu evarūpāni paṇītabhojanāni agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjeyya pācittiyaṃ.
40. Yo pana bhikkhu adinnaṃ mukhadvāraṃ āhareyya aññatra udakadantapoṇā pācittiyaṃ.
Bhojanavaggo catuttho.
41. Yo pana bhikkhu acelakassa vā paribbā-jakassa vā paribbājikāya vā sahatthā khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā dadeyya pācittiyaṃ.
42. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ evaṃ vadey-ya eh' āvuso gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇḍāya pavisis-sāmā'ti tassa dāpetvā vā adāpetvā vā uyyojeyya gac-ch' āvuso na me tayā saddhiṃ kathā vā nisajjā vā phāsu hoti ekakassa me kathā vā nisajjā vā phāsu hotī'ti. etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācit-tiyaṃ.
43. Yo pana bhikkhu sabhojane kule anupa-khajja nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
44. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ raho paṭicchanne āsane nisajjaṃ kappeyya pācitti-yaṃ.
45. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ eko ekāya raho nisajjaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
46. Yo pana bhikkhu nimantito sabhatto sa-māno santaṃ bhikkhuṃ anāpucchā purebhattaṃ vā pacchābhattaṃ vā kulesu cārittaṃ āpajjeyya aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth' āyaṃ samayo cīvaradāna-samayo cīvarakārasamayo, ayaṃ tattha samayo.
47. Agilānena bhikkhunā cātummāsappacca-yappavāraṇā sāditabbā aññatra punappavāraṇāya aññatra niccappavāraṇāya tato ce uttariṃ sādiyeyya pācittiyaṃ.
48. Yo pana bhikkhu uyyuttaṃ senaṃ dassa-nāya gaccheyya aññatra tathārūpappaccayā pācitti-yaṃ.
49. Siyā ca tassa bhikkhuno koci deva pac-cayo senaṃ gamanāya dvirattatirattaṃ tena bhik-khunā senāya vasitabbaṃ. Tato ce uttariṃ vaseyya pācittiyaṃ.
50. Dvirattatirattañce bhikkhu senāya vasa-māno uyyodhikaṃ vā balaggaṃ vā senabyūhaṃ vā anīkadassanaṃ vā gaccheyya pācittiyaṃ.
Acelakavaggo pañcamo.
51. Surāmerayapāṇe pācittiyaṃ.
52. Aṅgulippatodake pācittiyaṃ.
53. Udake hassadhamme pācittiyaṃ.
54. Anādariye pācittiyaṃ.
55. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ bhiṃsāpeyya pācittiyaṃ.
56. Yo pana bhikkhu agilāno visīvanāpekkho jotiṃ samādaheyya vā samādahāpeyya vā aññatra tathārūpappaccayā pācittiyaṃ.
57. Yo pana bhikkhu oren'aḍḍhamāsaṃ nahā-yeyya aññatra samayā pācittiyaṃ. Tatth'āyaṃ sama-yo diyaḍḍho māso seso gimhānanti vassānassa paṭha-mo māso iccete aḍḍhateyyamāso uṇhasamayo pari-ḷāhasamayo gilānasamayo kammasamayo addhā-nagamanasamayo vātavuṭṭhisamayo. Ayaṃ tattha samayo.
58. Navaṃ pana bhikkhunā cīvaralābhena tiṇṇaṃ dubbaṇṇakaraṇānaṃ aññataraṃ dubbaṇṇa-karaṇaṃ ādātabbaṃ nīlaṃ vā kaddamaṃ vā kāḷasā-maṃ vā. Anādā ce bhikkhu tiṇṇaṃ dubbaṇṇakara-ṇānaṃ aññataraṃ dubbaṇṇakaraṇaṃ navaṃ cīvaraṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
59. Yo pana bhikkhu bhikkhussa vā bhikkhu-niyā vā sikkhamānāya vā sāmaṇerassa vā sāmaṇe-riyā vā sāmaṃ cīvaraṃ vikappetvā appaccuddhāra-kaṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
60. Yo pana bhikkhu bhikkhussa pattaṃ vā cīvaraṃ vā nisīdanaṃ vā sūcigharaṃ vā kāyaban-dhanaṃ vā apanidheyya vā apanidhāpeyya vā anta-maso hassāpekkhopi pācittiyaṃ.
Surāpāṇavaggo chaṭṭho
61. Yo pana bhikkhu sañcicca pāṇaṃ jīvitā voropeyya pācittiyaṃ.
62. Yo pana bhikkhu jānaṃ sappāṇakaṃ udakaṃ paribhuñjeyya pācittiyaṃ.
63. Yo pana bhikkhu jānaṃ yathādhammaṃ nihatādhikaranaṃ punakkammāya ukkoteyya pācit-tiyaṃ.
64. Yo pana bhikkhu bhikkhussa jānaṃ duṭṭhullaṃ āpattiṃ paṭicchādeyya pācittiyaṃ.
65. Yo pana bhikkhu jānaṃ ūnavīsativassaṃ puggalaṃ upasampādeyya so ca puggalo anupasam-panno te ca bhikkhū gārayhā idaṃ tasmiṃ pācitti-yaṃ.
66. Yo pana bhikkhu jānaṃ theyyasatthena saddhiṃ saṃvidhāya ekaddhāmaggaṃ paṭipajjeyya antamaso gāmantarampi pācittiyaṃ.
67. Yo pana bhikkhu mātugāmena saddhiṃ saṃvidhāya ekaddhānamaggaṃ paṭipajjeyya anta-maso gāmantarampi pācittiyaṃ.
68. Yo pana bhikkhu evaṃ vadeyya tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So bhikkhu bhikkhūhi evam-assa vacanīyo mā āyasmā evaṃ avaca mā bhagavantaṃ abbhācikkhi na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi bhagavā evaṃ vadeyya aneka-pariyāyena āvuso antarāyikā dhammā vuttā bhaga-vatā alañca pana te paṭisevato antarāyāyā'ti. Evañca so bhikkhu bhikkhūhi vuccamāno Tath' eva paggaṇ-heyya so bhikkhu bhikkhūhi yāvatatiyaṃ samanu-bhāsitabbo tassa paṭinissaggāya yāvatatiyañce sama-nubhāsiyamāno taṃ paṭinissajjeyya iccetaṃ kusalaṃ no ce paṭinissajjeyya pācittiyaṃ.
69. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathāvādinā bhik-khunā akaṭānudhammena taṃ diṭṭhiṃ appaṭinissaṭ-ṭhena saddhiṃ sambhuñjeyya vā saṃvaseyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
70. Samaṇuddeso pi ce evaṃ vadeyya tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭise-vato n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So samaṇuddeso bhik-khūhi evamassa vacanīyo mā āvuso samanuddesa evaṃ avaca mā bhagavantaṃ abbhācikkhi na hi sādhu bhagavato abbhakkhānaṃ na hi bhagavā evaṃ vadeyya anekapariyāyena āvuso samaṇuddesa anta-rāyikā dhammā vuttā bhagavatā alañca pana te paṭi-sevato antarāyāyā'ti. Evañca so samaṇuddeso bhik-khūhi vuccamāno Tath'eva paggaṇheyya so sama-ṇuddeso bhikkhūhi evam-assa vacanīyo ajjatagge te āvuso samaṇuddesa na c'eva so bhagavā satthā apadisitabbo yampi c' aññe samaṇuddesā labhanti bhikkhūhi saddhiṃ dvirattatirattaṃ sahaseyyaṃ sā'pi te natthi cara pire vinassā' ti. Yo pana bhikkhu jānaṃ tathānāsitaṃ samaṇuddesaṃ upalāpeyya vā upaṭṭhāpeyya vā sambhuñjeyya vā saha vā seyyaṃ kappeyya pācittiyaṃ.
Sappāṇakavaggo sattano.
71. Yo pana bhikkhu bhikkhūhi sahadham-mikaṃ vuccamāno evaṃ vadeyya na tā v'ā haṃ āvu-so etasmiṃ sikkhāpade sikkhissāmi yāva n' aññaṃ bhikkhuṃ byattaṃ vinayadharaṃ paripucchāmī' ti pācittiyaṃ. Sikkhamānena bhikkhave bhikkhunā aññatabbaṃ paripucchitabbaṃ paripañhitabbaṃ. Ayaṃ tattha sāmīci.
72. Yo pana bhikkhu pāṭimokkhe uddis-sa-māne evaṃ vadeyya kimpan' imehi khuddānukhud-dakehi sikkhāpadehi uddiṭṭhehi yāvadeva kukkuc-cāya vihesāya vilekhāya saṃvattantī' ti. Sikkhāpa-davivaṇṇanake pācittiyaṃ.
73. Yo pana bhikkhu anvaḍḍhamāsaṃ pāṭi-mokkhe uddissamāne evaṃ vadeyya idān'eva kho ahaṃ jānāmi ayampi kira dhammo suttāgato sutta-pariyāpanno anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchatī' ti. Tañce bhikkhuṃ aññe bhikkhū jāneyyuṃ nisinna-pubbaṃ iminā bhikkhunā dvittikkhattuṃ pāṭimok-khe uddissamāne ko pana vādo bhiyyo'ti na ca tassa bhikkhuno aññāṇakena mutti atthi yañca tattha āpattiṃ āpanno tañca yathādhammo kāretabbo uttariñc' assa moho āropetabbo tassa te āvuso alā-bhā tassa te dulladdhaṃ yaṃ tvaṃ paṭimokkhe ud-dissamāne na sādhukaṃ aṭṭhikatvā manasikarosī' ti. Idaṃ tasmiṃ mohanake pācittiyaṃ.
74. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito anat-tamano pahāraṃ dadeyya pācittiyaṃ.
75. Yo pana bhikkhu bhikkhussa kupito anattamano talasattikaṃ uggireyya pācittiyaṃ.
76. Yo pana bhikkhu bhikkhuṃ amūlakena saṅghādisesena anuddhaṃseyya pācittiyaṃ.
77. Yo pana bhikkhu bhikkhussa sañcicca kukkuccaṃ upadaheyya iti' ssa muhuttampi aphāsu bhavissatī' ti. Etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
78.Yo pana bhikkhu bhikkhūnaṃ bhaṇḍa-najātānaṃ kalahajātānaṃ vivādāpannānaṃ upas-sutiṃ tiṭṭheyya yaṃ ime bhanissanti taṃ sossāmī' ti. Etadeva paccayaṃ karitvā anaññaṃ pācittiyaṃ.
79. Yo pana bhikkhu dhammikānaṃ kam-mānaṃ chandaṃ datvā pacchā khīyanadhammaṃ apajjeyya pācittiyaṃ.
80. Yo pana bhikkhu saṅghe vinicchayaka-thāya vattamānāya chandaṃ adatvā utthāy' āsanā pakkameyya pācittiyaṃ.
81. Yo pana bhikkhu samaggena saṅghena cīvaraṃ datvā pacchā khīyanadhammaṃ āpajjeyya yathā santhutaṃ bhikkhū saṅghikaṃ lābhaṃ pari-ṇāmentī' ti pācittiyaṃ.
82. Yo pana bhikkhu jānaṃ saṅghikaṃ lā-bhaṃ pariṇataṃ puggalassa pariṇāmeyya pācittiyaṃ.
Sahadhammikavaggo aṭṭhamo
83. Yo pana bhikkhu rañño khattiyassa mud-dhābhisittassa anikkhantarājake aniggataratanake pubbe appaṭisaṃvidito indakhīlaṃ atikkāmeyya pā-cittiyaṃ.
84. Yo pana bhikkhu ratanaṃ vā ratana-sammataṃ vā aññatra ajjhārāmā vā ajjhāvasathā vā uggaṇheyya vā uggaṇhāpeyya vā pācittiyaṃ. Rata-naṃ vā pana bhikkhunā ratanasammataṃ vā ajjhā-rāme vā ajjhāvasathe vā uggahetvā vā uggahāpetvā vā nikkhipitabbaṃ yassa bhavissati so harissatī' ti. Ayaṃ tattha sāmīci.
85. Yo pana bhikkhu santaṃ bhikkhuṃ anā-pucchā vikāle gāmaṃ paviseyya aññatra tathārūpā accāyikā karaṇīyā pācittiyaṃ.
86. Yo pana bhikkhu aṭṭhimayaṃ vā danta-mayaṃ vā visānamayaṃ vā sūcigharaṃ kārāpeyya bhedanakaṃ pācittiyaṃ.
87. Navaṃ pana bhikkhunā mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā kārayamānena aṭṭhaṅgulapādakaṃ kāre-tabbaṃ sugataṅgulena aññatra heṭṭhimāya aṭaniyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ pācittiyaṃ.
88. Yo pana bhikkhu mañcaṃ vā pīṭhaṃ vā tūlonaddhaṃ kārāpeyya uddālanakaṃ pācittiyaṃ.
89. Nisīdanaṃ pana bhikkhunā kārayamāne-na pamāṇikaṃ kāretabbaṃ tatridaṃ pamāṇaṃ dī-ghaso dve vidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ diyad-dhaṃ dasā vidatthī taṃ atikkāmayato chedakaṃ pā-cittiyaṃ.
90. Kaṇḍuppaṭicchādiṃ pana bhikkhunā kārayamānena pamāṇikā kāretabbā tatridaṃ pamā-naṃ dīghaso catasso vidatthiyo sugatavidatthiyā tiri-yaṃ dve vidatthiyo taṃ atikkāmayato chedanakaṃ pācittiyaṃ.
91. Vassikasāṭikaṃ pana bhikkhunā kāraya-mānena pamānikā kāretabbā tatridaṃ pamānaṃ dīghaso cha vidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ aḍ-ḍhateyyā taṃ atikkāmayato chedanakaṃ pācittiyaṃ.
92. Yo pana bhikkhu sugatacīvarappamānaṃ cīvaraṃ kārāpeyya atirekaṃ vā chedanakaṃ pācit-tiyaṃ. Tatridaṃ sugatassa sugatacīvarappamānaṃ dīghaso nava vidatthiyo sugatavidatthiyā tiriyaṃ cha vidatthiyo. Idaṃ sugatassa sugatacīvarappamāṇaṃ.
Ratanavaggo navamo.
Udditthā kho āyasmanto dvenavuti pācittiyā dhammā, Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī evametaṃ dhārayāmi.
Pācittiyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là chín mươi hai pháp ưng đối trị được tổng thuyết như sau:
PHẨM 1: PHẨM NÓI DỐI
1. Biết rõ lại nói dối, phạm ưng đối trị.
2. Chửi mắng vị khác, phạm ưng đối trị.
3. Nói đâm thọc Tỳ-kheo, phạm ưng đối trị.
4. Vị Tỳ-kheo nào dạy pháp thể thơ kệ cho người chưa thọ cụ túc giới (đọc chung) phạm ưng đối trị.
5. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với người chưa thọ cụ túc giới quá hai ba đêm, phạm ưng đối trị.
6. Vị Tỳ-kheo nào ngủ chung với phụ nữ (một nhà), phạm ưng đối trị.
7. Vị Tỳ-kheo nào nói pháp cho người nữ quá năm sáu lời, phạm ưng đối trị, ngoại trừ được người nam tỉnh táo chứng kiến.
8. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ pháp cao nhân đã thực chứng với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị.
9. Vị Tỳ-kheo nào tiết lộ tội lỗi của Tỳ-kheo với người chưa thọ cụ túc giới, phạm ưng đối trị ngoại trừ vị Tỳ-kheo được phép.
10. Vị Tỳ-kheo nào đào bới đất hoặc sai đào bới, phạm ưng đối trị.
PHẨM 2: PHẨM THẢO MỘC
11. Phá hại thảo mộc, phạm ưng đối trị.
12. Nói tráo trở gây khó khăn, phạm ưng đối trị.
13. kích bác chỉ trích, phạm ưng đối trị.
14. Vị Tỳ-kheo nào lấy giường của Tăng hoặc ghế hoặc nệm hoặc gối trải ra nơi trống hay sai trải ra rồi khi đi khỏi không thu dọn cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không từ giã, phạm ưng đối trị.
15. Vị Tỳ-kheo nào trải dọn chỗ nằm, hoặc sai trải dọn, trong tịnh thất của Tăng rồi khi rời khỏi chỗ ấy không thu dọn cũng không nhờ thu dọn hoặc đi không cáo từ phạm ưng đối trị.
16. Vị Tỳ-kheo nào biết trong tịnh thất của Tăng có vị Tỳ-kheo đã đến trước, vẫn chen vào trải dọn chỗ ngủ nghĩ rằng ai bực bội thì đi ra; chỉ có nguyên nhân đó không việc gì khác cũng phạm tội ưng đối trị.
17. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình với Tỳ-kheo rồi kéo lôi hoặc sai kéo lôi ra khỏi tịnh thất của tăng, phạm ưng đối trị.
18. Vị Tỳ-kheo nào ngồi hoặc nằm trên giường ghế kê tạm ở gác lửng trong tịnh xá của tăng, phạm ưng đối trị.
19. Khi vị tỳ-kheo cho làm tịnh thất lớn, cần phải đứng ở khoảng cách cửa cái để mở then gài, để sơn phết cửa sổ; đứng tại chỗ không phải ruộng rẩy để lợp mái, chỉ lợp hai ba lớp. Nếu thực hiện vượt quá cách đó, dù đứng tại chỗ không phải ruộng rẫy, cũng phạm ưng đối trị.
20. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật lại đổ hoặc sai đổ trên cỏ hay mặt đất, phạm ưng đối trị.
PHẨM 3: PHẨM GIÁO ÐẠO
21. Vị Tỳ-kheo nào chưa được cho phép mà giáo đạo các Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị.
22. Vị Tỳ-kheo mặc dù đã được cho phép nhưng giáo đạo các Tỳ-kheo ni lúc mặt trời đã lặn, phạm ưng đối trị.
23. Vị Tỳ-kheo nào đi đến cư xá ni chúng mà giáo đạo chư Tỳ-kheo ni, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. Trường hợp ở đây là có Tỳ-kheo ni bị bệnh.
24. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau "chư Tỳ-kheo giáo đạo Tỳ-kheo ni vì nhân lợi lộc" phạm ưng đối trị.
25. Vị Tỳ-kheo nào cho y đến Tỳ-kheo ni không phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị, ngoại trừ trao đổi.
26. Vị Tỳ-kheo nào may hoặc nhờ may y cho Tỳ-kheo ni không phải quyến thuộc, phạm ưng đối trị.
27. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau với vị Tỳ-kheo ni hành trình chung một đường dài, thậm chí dù chỉ qua một khoảng xóm, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. Trường hợp ở đây là con đường cần đi thành đoàn, có điều nghi ngờ, có sự nguy hiểm.
28. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau với Tỳ-kheo ni ngồi chung một thuyền, đi xuôi hoặc đi ngược dòng, phạm ưng đối trị, trừ khi băng đò ngang.
29. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn thực phẩm do Tỳ-kheo ni sắp đặt, phạm ưng đối trị, trừ khi người cư sĩ khởi xướng trước.
30. Vị Tỳ-kheo nào cùng với Tỳ-kheo ni, một với một, ngồi chỗ vắng vẻ, phạm ưng đối trị.
PHẨM 4: PHẨM VẬT THỰC
31. Với Tỳ-kheo vô bệnh, thức ăn tại bố thí đường chỉ nên dùng một lần, nếu thọ dụng hơn hạn ấy, phạm ưng đối trị.
32. Thọ thực chung nhóm, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp là lúc bị bệnh, lúc lễ dâng y, lúc bận làm y, lúc đi đường xa, lúc đi thuyền, lúc đại hội, lúc tu sĩ thí thực. Ðây là trường hợp trong điều học này.
33. Thọ thực hậu thỉnh phạm ưng đối trị, ngoại trừ có trường hợp. Ở đây trường hợp này là lúc bị bệnh, lúc lễ dâng y, lúc bận làm y. Ðây là trường hợp trong điều học này.
34. Vị Tỳ-kheo đi đến tư gia, có người yêu cầu để cúng dường bánh hoặc lương khô. Nếu vị Tỳ-kheo muốn thì chỉ nên thọ nhận hai-ba bát đầy. Nếu thọ nhận quá hạn ấy phạm ưng đối trị. Sau khi thọ nhận hai ba bát đầy, đem khỏi nơi ấy cần phải phân chia với các vị Tỳ khưu. Ðây là cách làm đúng trong điều học này.
35. Vị Tỳ-kheo nào đã ăn xong, đã ngăn thực, lại ăn hoặc thưởng thức vật thực loại cứng hay loại mềm phi tàn thực, phạm ưng đối trị.
36. Vị Tỳ-kheo nào nài ép dâng cho Tỳ-kheo đã ăn xong và ngăn vật thực rồi, bằng thức ăn loại cứng hay loại mềm phi tàn thực, bảo rằng: "Này Tỳ-kheo hãy ăn, hãy thọ dùng" biết rõ nhưng muốn chỉ trích; khi vị đó ăn xong, vị này phạm ưng đối trị.
37. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật thực loại cứng hay loại mềm trong phi thời, phạm ưng đối trị.
38. Vị Tỳ-kheo nào nhai ăn hoặc thọ dùng vật thực loại cứng hay loại mềm đã dự trử, phạm ưng đối trị.
39. Những thức ăn thượng vị nào như là bơ tươi, bơ đặc, dầu mè, mật ong, đường, cá, thịt, sữa tươi, sữa đông; vị Tỳ-kheo nào vô bệnh vì lợi mình mà xin những thức ăn thượng vị như vậy rồi thọ dùng, phạm ưng đối trị.
40. Vị Tỳ-kheo nào đưa vào miệng thứ vật thực chưa được cho, phạm ưng đối trị ngoại trừ nước lả và tăm xỉa răng.
PHẨM 5: PHẨM LÕA THỂ
41. Vị Tỳ-kheo nào tự tay cho thức ăn loại cứng hoặc loại mềm đến tu sĩ lỏa thể hay nam du sĩ hay nữ du sĩ, phạm ưng đối trị.
42. Vị Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo khác như sau: "này hiền giả hãy đi, chúng ta sẽ vào làng hay thị trấn để khất thực; nhưng rồi khi đã bố thí cho vị ấy hoặc chưa bố thí lại xua đuổi về: hãy đi đi này hiền giả nói chuyện với ông hay ngồi lại với ông, tôi không thoải mái, thà tôi nói chuyện một mình hay ngồi một mình mà an vui hơn". Chỉ có nguyên nhân ấy không chi khác, phạm ưng đối trị.
43. Vị Tỳ-kheo nào xen vào ngồi trong gia đình đôi vợ chồng, phạm ưng đối trị.
44. Vị Tỳ-kheo nào ngồi trong chỗ che dừng kín đáo với người phụ nữ, phạm ưng đối trị.
45. Vị Tỳ-kheo nào ngồi khuất vắng với người phụ nữ, một với một, phạm ưng đối trị.
46. Vị Tỳ-kheo nào được mời thỉnh nhận đi thọ thực, nếu chưa từ giã vị Tỳ-kheo đang có mặt lại đi thăm viếng các gia đình khác trước hoặc sau thời ngọ trai, phạm ưng đối trị., ngoại trừ có trường hợp. Trường hợp ở đây là lúc lễ dâng y, lúc đang làm y. Ðây là trường hợp trong điều học này.
47. Với vị Tỳ-kheo vô bệnh chỉ nên vui nhận vật dụng yêu cầu thời hạn bốn tháng, nếu vui nhận quá thời hạn ấy, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có lời yêu cầu tiếp tục hay được yêu cầu vĩnh viễn.
48. Vị Tỳ-kheo nào đi xem quân đội diễn tập, phạm ưng đối trị. Ngoại trừ có duyên cớ thích đáng.
49. Ðối với vị Tỳ-kheo có duyên cớ chi phải đến gia binh thì vị Tỳ-kheo ấy chỉ nên ngụ lại trong gia binh hai ba đêm. Nếu ngụ quá hạn ấy, phạm ưng đối trị.
50. Nếu vị Tỳ-kheo khi đang cư ngụ tại gia binh hai ba đêm mà đi đến chỗ tập trận, chỗ đóng quân, chỗ tập hợp quân hoặc chỗ duyệt binh, phạm ưng đối trị.
PHẨM 6: PHẨM UỐNG RƯỢU
51. Uống rượu ngâm, rượu cất, phạm ưng đối trị.
52. Chơi thọc cù lét, phạm ưng đối trị.
53. Giỡn nước, phạm ưng đối trị.
54. Thái độ bất cần, phạm ưng đối trị.
55. Vị Tỳ-kheo nào hù nhát Tỳ-kheo, phạm ưng đối trị.
56. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, đốt lửa muốn sưởi ấm hoặc sai đốt lửa, phạm ưng đối trị, ngoại trừ có duyên cớ hợp lẽ.
57. Vị Tỳ-kheo nào chưa tới nửa tháng mà tắm, phạm ưng đối trị. ngoại trừ có trường hợp. Ở đây có trường hợp là còn một tháng rưỡi cuối mùa nóng, tháng đầu của mùa mưa, đó là hai tháng rưỡi thời gian oi bức; trường hợp thời tiết nực nội; trường hợp bệnh hoạn; trường hợp làm việc nhọc; trường hợp đi đường xa; trường hợp mưa gió. Ðây là duyên cớ trong điều học này.
58. Vị Tỳ-kheo nhận được y mới phải lấy một trong ba màu tối để làm hoại sắc, là màu xanh, màu bùn hay màu đen. Nếu vị Tỳ-kheo không lấy một trong ba màu tối làm hoại sắc mà sử dụng y mới, phạm ưng đối trị.
59. Vị Tỳ-kheo nào tự mình ký gởi y cho Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo ni hoặc học nữ hoặc sa-di hoặc sa-di ni, chưa rút lời mà sử dụng, phạm ưng đối trị.
60. Vị Tỳ-kheo nào cất giấu hoặc bảo cất giấu bình bát của Tỳ khưu, hoặc y hoặc tọa cụ hoặc ống đựng kim hoặc dây lưng. Dù chỉ để vui cười. phạm ưng đối trị.
PHẨM 7: PHẨM CÓ SINH VẬT
61. Vị Tỳ-kheo nào cố ý đoạt mạng sống sinh vật, phạm ưng đối trị.
62. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ nước có sinh vật mà vẫn sử dụng, phạm ưng đối trị
63. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vụ kiện tụng đã được xử theo pháp vẫn khơi dậy để xử lại, phạm ưng đối trị.
64. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lại che giấu tội xấu xa của Tỳ khưu, phạm ưng đối trị.
65. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ người chưa đủ hai mươi tuổi mà truyền cụ túc giới, phạm ưng đối trị; người ấy không đắc cụ túc giới và chư Tỳ-kheo ấy đáng bị quở trách.
66. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ mà rủ nhau hành trình chung đường dài cùng với bọn lậu thương, dù chỉ đi qua một khoảng xóm cũng phạm ưng đối trị.
67. Vị Tỳ-kheo nào rủ nhau hành trình chung đường dài với người phụ nữ, dù chỉ qua một khoảng xóm cũng phạm ưng đối trị.
68. Vị Tỳ-kheo nào nói như sau: "theo tôi hiểu biết pháp do Ðức Thế Tôn đã thuyết thì những pháp mà Ðức Thế Tôn bảo là pháp tai hại, những pháp ấy thật không đủ gây tai hại cho người hành theo đâu". Vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo khuyên bảo như vầy: "Tôn giả chớ có nói như vậy, chớ có xuyên tạc Ðức Thế Tôn, sự xuyên tạc Ðức Thế Tôn chắc chắn là không tốt; bởi lẽ đức Thế Tôn không hề nói như vậy, này hiền giả các pháp tai hại được đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tuyên bố hại thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại cho người hành theo". Vị Tỳ-kheo ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy mà vẫn cố chấp như cũ thì vị Tỳ-kheo ấy cần được chư Tỳ-kheo can gián ba lần cho bỏ lời ấy; nếu khi được can gián ba lần mà bỏ thì là điều tốt, bằng nếu không bỏ, phạm ưng đối trị.
69. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vẫn ăn chung hoặc ở chung hoặc ngủ chung với Tỳ-kheo người nói quấy không hành theo pháp, không bỏ tà kiến ấy, phạm ưng đối trị.
70. Nếu có vị sa-di nói như sau: "theo tôi hiểu pháp Ðức Thế Tôn đã thuyết, thì những pháp mà Ðức Thế Tôn tuyên bố là tai hại, những pháp ấy thật sự không đủ để làm tai hại cho người thực hành đâu". Vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như sau: "Này ông sa-di, ngươi chớ có nói như vậy, chớ xuyên tạc Ðức Thế Tôn, vì sự xuyên tạc Ðức Thế Tôn là không tốt, chắc chắn Ðức Thế Tôn không tuyên bố như vậy; này ông sa-di những pháp tai hại đã được Ðức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tuyên bố thì những pháp ấy hẳn đúng là gây tai hại cho người thực hành" Vị sa-di ấy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo như vậy vẫn cố chấp thì vị sa-di ấy cần được chư Tỳ-kheo nói rằng: " kể từ hôm nay này ông sa-di, Ðức Thế Tôn không cần ngươi bái làm bậc Ðạo Sư nữa; lợi đắc nào mà các vị sa-di khác có được như quyền đồng cư với chư Tỳ-kheo hai ba đêm, lợi đắc ấy ngươi không có, hỡi kẻ xấu hãy đi mất đi". Vị Tỳ-kheo nào biết rõ vị sa-di đã bị tẩn xuất như thế lại dụ dỗ hoặc sai phục dịch hoặc ăn chung hoặc ngủ chung, phạm ưng đối trị .
PHẨM 8: PHẨM THEO PHÁP
71. Vị Tỳ-kheo nào khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo đúng pháp lại nói như sau: "Nầy chư hiền cho đến khi nào tôi chưa hỏi vị Tỳ-kheo khác thông thạo trì luật thì đến chừng ấy tôi vẫn chưa chịu học tập điều học đó đâu" nói vậy phạm ưng đối trị. Này chư Tỳ khưu, với vị Tỳ-kheo cầu học cần phải tìm hiểu, cần phải học hỏi, cần phải nghi vấn. Ðây là điều hợp lý trong pháp này.
72. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn đang được thuyết tụng lại nói như sau: "có ích gì với những điều học nhỏ nhặt tiểu tiết này, chỉ là dẫn đến sự hối tiếc, ray rứt bận tâm thôi". Vì thái độ chê bai học giới, phạm ưng đối trị.
73. Vị Tỳ-kheo nào khi giới bổn được thuyết tụng mỗi nửa tháng một lần, lại nói như sau: "tới nay tôi mới biết là pháp này được tổng thuyết mỗi nửa tháng lại có liên quan đến kinh luật, hệ thuộc kinh luật". Các vị Tỳ-kheo khác vẫn biết rõ đối với Tỳ-kheo này đã từng ngồi nghe thuyết tụng giới bổn đôi ba lần, huống chi là nhiều hơn nữa. Ðối với Tỳ-kheo ấy không thoát tội do sự thiếu hiểu biết, vị đó có phạm tội gì thì cần được trị phạt theo pháp tội ấy; thêm nữa cần phải giải tỏa sự u mê của vị ấy, rằng: "này hiền giả thật bất lợi cho ông, thật thiệt hại cho ông về việc này, việc mà ông không chú tâm khéo tác ý khi giới bổn đang được thuyết tụng". Trong vụ này vì việc giả khờ, phạm ưng đối trị.
74. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo khác rồi đánh đập, phạm ưng đối trị.
75. Vị Tỳ-kheo nào sân giận bất bình vị Tỳ-kheo khác rồi giá tay dọa, phạm ưng đối trị.
76. Vị Tỳ-kheo nào vu cáo vị Tỳ-kheo với tội tăng tàng vô căn cớ, phạm ưng đối trị.
77. Vị Tỳ-kheo nào cố tình gây áy náy cho Tỳ khưu, nghĩ rằng: "làm cho vị ấy chỉ bất an một chút thôi". Chỉ có duyên cớ đó không chi khác, phạm ưng đối trị.
78. Vị Tỳ-kheo nào trong khi các Tỳ-kheo xung đột cãi vã tranh luận, lại đứng rình rập, nghĩ rằng: "Những vị này nói gì ta sẽ nghe điều ấy". Chỉ có duyên cớ đó không chi khác, phạm ưng đối trị.
79. Vị Tỳ-kheo nào khi đã đưa lời thỏa thuận trong vụ tăng sự đúng pháp, về sau lại hiềm trách, phạm ưng đối trị.
80. Vị Tỳ-kheo nào giữa cuộc xét xử đang tiến hành trong tăng, chưa đưa lời thỏa hiệp mà đứng dậy khỏi chỗ ngồi bỏ đi, phạm ưng đối trị.
81. Vị Tỳ-kheo nào khi Tăng hòa hợp giao y rồi mà về sau lại hiềm trách rằng: "Chư Tỳ-kheo theo pháp vị thân mà cưỡng đoạt lợi lộc của Tăng", phạm ưng đối trị.
82. Vị Tỳ-kheo nào biết rõ lợi lộc được dâng hiến thuộc về tăng, lại cưỡng đoạt cho một cá nhân, phạm ưng đối trị.
PHẨM 9: PHẨM CHÂU BÁU
83. Vị Tỳ-kheo nào chưa báo tin trước mà đi vào hậu cung của vua Sát-đế-lỵ đã được tôn vương, khi vua và hoàng hậu chưa ngự ra ngoài, phạm ưng đối trị.
84. Vị Tỳ-kheo nào nhặt lấy hoặc sai nhặt lấy báu vật hay vật được định là của báu, phạm ưng đối trị. ngoại trừ trong chùa hoặc nơi cư ngụ, khi vị Tỳ-kheo nhặt được hoặc bảo người nhặt báu vật hay vật được định là của báu, trong vòng chùa hoặc chỗ cư ngụ thì nên giữ lại nghĩ rằng là của ai người ấy sẽ mang đi. Ðây là cách làm tốt trong điều này.
85. Vị Tỳ-kheo nào chưa từ giã Tỳ-kheo hiện diện, mà đi vào xóm lúc phi thời, phạm ưng đối trị, trừ phi có việc cấp thiết chính đáng .
86. Vị Tỳ-kheo nào sai làm ống đựng kim bằng xương hoặc bằng nanh hoặc bằng sừng, phạm ưng đối trị, vật phải đập bể.
87. Giường hay ghế mới mà vị Tỳ-kheo sai làm ra, cần phải cho làm chân cao tám ngón, tính theo ngón tay Ðức Phật [14], đo từ thanh diềm dưới, vượt quá mức ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
88. Vị Tỳ-kheo nào sai làm giường hay ghế lót nệm gòn, phạm ưng đối trị, nệm phải xé bỏ.
89. Tọa cụ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là chiều dài hai gang tay, chiều rộng một gang rưỡi, bìa 1 gang, tính theo gang Ðức Phật [15], làm vượt quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ .
90. Băng rịt ghẻ mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 4 gang, rộng 2 gang, tính theo gang Ðức Phật; quá cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
91. Choàng tắm mưa mà Tỳ-kheo nhờ làm, phải cho làm theo kích cỡ, kích thước ở đây là dài 6 gang, rộng 2 gang rưởi, theo gang Ðức Phật, quá kích cỡ ấy phạm ưng đối trị, vật phải cắt bỏ.
92. Vị Tỳ-kheo nào nhờ làm y bằng cỡ y của Ðức Phật hoặc rộng hơn, phạm ưng đối trị, y phải cắt bỏ. Ở đây, kích thước y của Ðức Phật là chiều dài 9 gang chiều ngang 6 gang, theo gang tay Ðức Phật, đây là kích thước tấm y của Ðức Thiện Thệ.
Bạch chư Tôn giả, chín mươi hai pháp ưng đối trị đã được tổng thuyết.
Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? chư Tôn giả trong đây được thanh tịnh, do đó im lặng, tôi xin ghi nhận sự việc ấy như vậy.
DỨT THUYẾT GIỚI ƯNG ÐỐI TRỊ.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ƯNG PHÁT LỘ
(Pātidesanīye vitthāruddeso)
Ime kho pan' āyasmanto cattāro pāṭidesanīyā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
1. Yo pana bhikkhu aññātikāya bhikkhuniyā antaragharaṃ paviṭṭhāya hatthato khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā sahatthā paṭiggahetvā khādeyya vā bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena bhikkhunā gāray-haṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ pāṭidesa-nīyaṃ taṃ paṭidesemī' ti.
2. Bhikkhū pan'eva kulesu nimantitā bhuñ-janti. Tatra ce bhikkhunī vosāsamānarūpā ṭhitā hoti idha sūpaṃ detha idha odanaṃ dethā ' ti. Tehi bhik-khūhi sā bhikkhunī apasādetabbā apasakka tāva bhagini yāva bhikkhū bhuñjantī' ti. Ekassapi ce bhikkhuno nappaṭibhāseyya taṃ bhikkhuniṃ apa-sādetuṃ apasakka tāva bhagini yāva bhikkhū bhuñ-jantī'ti paṭidesetabbaṃ tehi bhikkhūhi gārayhaṃ āvuso dhammā āpajjimhā asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemā' ti.
3. Yāni kho pana tāni sekkhasammatāni kulāni. Yo pana bhikkhu tathārūpesu sekkhasamma-tesu kulesu pubbe animantito agilāno khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā sahatthā paṭiggahetvā khādeyya vā bhuñjeyya vā paṭidesetabbaṃ tena bhikkhunā gāray-haṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ paṭidesa-nīyaṃ taṃ paṭidesemī'ti.
4. Yāni kho pana tāni āraññakāni senāsanāni sāsaṅkasammatāni sappaṭibhayāni. Yo pana bhik-khu tathārūpesu senāsanesu viharanto pubbe appaṭi-saṃviditaṃ khādanīyaṃ vā bhojanīyaṃ vā ajjhārāme sahatthā paṭiggahetvā agilāno khādeyya vā bhuñ-jeyya vā paṭidesetabbaṃ tena bhikkhunā gārayhaṃ āvuso dhammaṃ āpajjiṃ asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemī ' ti.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto cattāro pāṭi-desa-nīyā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Pāṭidesanīyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bốn pháp ưng phát lộ được tổng thuyết như sau:
1. Vị Tỳ-kheo nào ăn hoặc dùng vật thực loại cứng hay loại mềm nhận từ tay vị Tỳ-kheo ni không phải thân quyến vừa mới đi vào xóm, vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ rằng: "Thưa hiền giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng quở trách, tôi xin sám hối điều ấy".
2. Các vị Tỳ-kheo được thỉnh mời, đang thọ thực tại những tư gia. Nếu tại đấy có vị Tỳ-kheo ni đứng chiêu đãi, bảo rằng: "Hãy cho canh ở đây, hãy cho cơm ở đây". Vị Tỳ-kheo ni ấy cần được chư Tỳ-kheo này đuổi ra: "Sư tỷ hãy tránh đi cho đến khi nào chư Tỳ-kheo thọ thực xong". Nếu không có một vị Tỳ-kheo nào lên tiếng đuổi Tỳ-kheo ni ấy đi ra để chư Tỳ-kheo thọ thực thì chư Tỳ-kheo này đáng phải phát lộ như sau: "Này hiền giả, chúng tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng bị quở trách, chúng tôi xin sám hối điều ấy."
3. Có những gia đình được thừa nhận là bậc thánh hữu học. Vị Tỳ-kheo nào vô bệnh, chưa được thỉnh mời trước mà tự tay thọ nhận rồi ăn hoặc dùng vật thực loại cứng hay loại mềm tại những gia đình thánh hữu học ấy, thì vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ như sau: "này hiền giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích hợp, đáng bị quở trách, tôi xin sám hối điều ấy."
4. Có những trú xứ ở rừng mà được cho rằng đáng khả nghi, có sự nguy hiểm. Vị Tỳ-kheo nào cư ngụ tại những trú xứ như thế vô bệnh lại tự tay thọ nhận rồi ăn hoặc dùng những thức ăn loại cứng, loại mềm, không thông báo trước, với vị Tỳ-kheo ấy cần phải phát lộ như sau: "này hiền giả, tôi đã phạm điều ưng phát lộ, không thích đáng, đáng bị quở trách, tôi xin sám hối điều ấy."
Bạch chư Tôn giả, bốn pháp ưng phát lộ đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi chư Tôn giả, các Ngài có được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài có được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi, các Ngài có được thanh tịnh chăng? Chư Tôn giả trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó là vậy.
DỨT PHẦN ƯNG PHÁT LỘ
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ƯNG HỌC PHÁP
(Sekhiyadhamme vitthāruddeso)
Ime kho pan' āyasmanto (pañcasattati) se-khiyā dhammā uddesaṃ āgacchanti .
1. Parimaṇḍalaṃ nivāsissāmī' ti sikkhā kara-ṇīyā.
2. Parimaṇḍalaṃ pārupissāmī ' ti sikkhā ka-raṇīyā.
3. Suppaṭicchanno antaraghare gamissāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
4. Suppaṭicchanno antaraghare nisīdissāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
5. Susaṃvuto antaraghare gamissāmī ' ti sik-khā karaṇīyā.
6. Susaṃvuto antaraghare nisīdissāmī'ti sik-khā karaṇīyā.
7. Okkhittacakkhu antaraghare gamissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
8. Okkhittacakkhu antaghare nisīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
9. Na ukkhittakāya antaraghare gamissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
10. Na ukkhittakāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
Parimaṇḍalavaggo paṭhamo
11. Na ujjagghikāya antaraghare gamissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
12. Na ujjagghikāya antaraghare nisīdissā-mī'ti sikkhā karaṇīyā.
13. Appasaddo antaraghare gamissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
14. Appasaddo antaraghare nisīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
15. Na kāyappacālakaṃ antaraghare gamis-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
16. Na kāyappacālakaṃ antaraghare nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
17. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare ga-missāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
18. Na bāhuppacālakaṃ antaraghare ni-sīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
19. Na sīsappacālakaṃ antaraghare ga-mis-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
20. Na sīsappacālakaṃ antaraghare nisī-dissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
Ujjagghikavaggo dutiyo.
21. Na khambhakato antaraghare gamissāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
22. Na khambhakato antaraghare nisīdis-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
23. Na Oguṇṭhito antaraghare gamissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
24. Na Oguṇṭhito antaraghare nisīdissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
25. Na ukkuṭikāya antaraghare gamissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
26. Na pallatthikāya antaraghare nisīdis-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
Chabbīsati sāruppā
27. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
28. Pattasaññī piṇḍapātaṃ paṭiggahessāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
29. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
30. Samatittikaṃ piṇḍapātaṃ paṭiggahes-sāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
Khambhakatavaggo tatiyo.
31. Sakkaccaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
32. Pattasaññī piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
33. Sapadānaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
34. Samasūpakaṃ piṇḍapātaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
35. Na thūpato omadditvā piṇḍapātaṃ bhuñ-jissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
36. Na sūpaṃ vā byañjanaṃ vā odanena pa-ṭicchādessāmī'ti bhuyyokamyataṃ upādāyā'ti sik-khā karaṇīyā.
37. Na sūpaṃ vā odanaṃ vā agilāno attano atthāya viññāpetvā bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
38. Na ujjhānasaññī paresaṃ pattaṃ olokes-sāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
39. N'ātimahantaṃ kabalaṃ karissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
40. Parimaṇḍalaṃ ālopaṃ karissāmī'ti sik-khā karaṇīyā.
Sakkaccavaggo catuttho
41. Na anāhaṭe kabale mukhadvāraṃ vi-varissāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
42. Na bhuñjamāno sabbaṃ hatthaṃ mukhe pakkhipissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
43. Na sakabalena mukhena byāharissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
44. Na piṇḍukkhepakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā karaṇīyā.
45. Na kabalāvacchedakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
46. Na avagaṇḍakārakaṃ bhuñjissāmī'ti sik-khā karaṇīyā.
47. Na hatthaniddhūnakaṃ bhuñjissāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
48. Na sitthāvakārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
49. Na jivhānicchārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
50. Na capucapukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
Kabalavaggo pañcamo.
51. Na surusurukārakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
52. Na hatthanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
53. Na pattanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
54. Na oṭṭhanillehakaṃ bhuñjissāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
55. Na sāmisena hatthena pānīyathālakaṃ paṭiggahessāmī' ti sikkhā karaṇīyā.
56. Na sasitthakaṃ pattadhovanaṃ an-taraghare chaḍḍessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Samattiṃsa bhojanappaṭisaṃyuttā.
57. Na chattapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
58. Na daṇḍapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
59. Na satthapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
60. Na āvudhapāṇissa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Surusuruvaggo chaṭṭho.
61. Na pādukārūḷhassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
62. Na upāhanārūḷhassa agilānassa dham-maṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
63. Na yānagatassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
64. Na sayanagatassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
65. Na pallaṭṭhikāya nisinnassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
66. Na veṭhitasīsassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
67. Na oguṇṭhitasīsassa agilānassa dham-maṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
68. Na chamāyaṃ nisīditvā āsane nisinnassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
69. Na nīce āsane nisīditvā ucce āsane nisin-nassa agilānassa dhammaṃ desessāmī'ti sikkhā karaṇīyā.
70. Na ṭhito nisinnassa agilānassa dham-maṃ desessāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
71. Na pacchato gacchanto purato gacchan-tassa agilānassa dhammaṃ desessāmī ' ti sikkhā ka-raṇīyā.
72. Na uppathena gacchanto pathena gac-chantassa agilānassa dhammaṃ desessāmī' ti sik-khā karaṇīyā.
Soḷasa dhammadesanāpaṭisaṃyuttā.
73. Na ṭhito agilāno uccāraṃ vā passāvaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
74. Na harite agilāno uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
75. Na udake agilānassa uccāraṃ vā pas-sāvaṃ vā kheḷaṃ vā karissāmī ' ti sikkhā karaṇīyā.
Tayo pakiṇṇakā niṭṭhitā.
Pādukāvaggo sattamo.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto (pañcasattati) sekhi-yā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci'ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh'etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Sekhiyā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bảy mươi lăm ưng học pháp được tổng thuyết như sau:
PHẨM 1: PHẨM TỀ CHỈNH
1. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vận y tề chỉnh.
2. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ choàng y tề chỉnh.
3. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo đi giữa xóm nhà.
4. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ mặc kín đáo ngồi giữa xóm nhà.
5. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc đi giữa xóm nhà.
6. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ khéo thu thúc ngồi giữa xóm nhà.
7. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi vào xóm nhà mắt nhìn xuống.
8. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong xóm nhà mắt nhìn xuống.
9. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi trong xóm nhà không vén y lên.
10. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong xóm nhà không vén y lên
PHẨM 2: PHẨM CƯỜI GIÒN
11. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ đi giữa xóm nhà không cười giòn.
12. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ ngồi trong xóm nhà không cười giòn.
13. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi đi giữa xóm nhà.
14. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ nhỏ tiếng khi ngồi giữa xóm nhà.
15. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo người khi đi giữa xóm nhà.
16. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không uốn éo người khi ngồi giữa xóm nhà.
17. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay chân khi đi giữa xóm nhà.
18. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không múa tay chân khi ngồi giữa xóm nhà.
19. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu khi đi giữa xóm nhà.
20. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lắc đầu khi ngồi giữa xóm nhà.
PHẨM 3: PHẨM CHỐNG NẠNH
21. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống nạnh khi đi giữa xóm nhà.
22. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không chống nạnh khi ngồi giữa xóm nhà.
23. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm đầu khi đi giữa xóm nhà.
24. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không trùm đầu khi ngồi giữa xóm nhà.
25. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi nhón gót giữa xóm nhà.
26. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ngồi bó gối giữa xóm nhà.
Dứt hai mươi sáu điều hảo tướng.
27. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực phẩm một cách nghiêm trang.
28. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực phẩm, tưởng nhìn ngay bát.
29. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực phẩm canh cơm bằng nhau.
30. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ nhận thực phẩm vừa đủ dùng.
PHẨM 4: PHẨM NGHIÊM TRANG
31. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực một cách nghiêm trang.
32. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực chỉ tưởng nhìn trong bát.
33. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cho đều.
34. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực cơm canh vừa nhau.
35. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ thọ thực không đùa cơm vun lên.
36. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không lấy cơm che lấp canh hoặc thức ăn vì ý muốn được nhiều thêm.
37. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không xin canh hoặc cơm cho chính mình ăn.
38. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nhìn ngó bát của vị khác có ý tìm lỗi.
39. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không làm vắt cơm quá lớn.
40. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ vắt vật thực tròn đều.
PHẨM 5: PHẨM VẮT CƠM
41. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không há miệng khi vắt cơm chưa đưa tới.
42. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đút trọn các ngón tay vào miệng khi đang ăn.
43. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không nói chuyện khi miệng còn vật thực.
44. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng cách tung hứng vắt cơm.
45. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn bằng cách cắn vỡ vắt cơm.
46. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn độn cơm phình má.
47. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn rảy búng ngón tay.
48. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn làm rơi đổ cơm.
49. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn thè lưỡi ra.
50. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn chép miệng thành tiếng.
PHẨM 6: PHẨM HÚP THÀNH TIẾNG
51. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn húp thành tiếng.
52. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm tay.
53. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm bát.
54. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không ăn liếm môi.
55. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không cầm đồ đựng nước với tay dính vật thực.
56. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đổ nước rửa bát có cặn thức ăn ra ngoài đất trống.
Dứt ba mươi hai điều liên quan vật thực.
57. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh tay cầm dù.
58. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh tay cầm gậy.
59. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh tay cầm dao.
60. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh tay cầm vũ khí.
PHẨM 7: PHẨM DÉP GIÀY
61. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh mang dép.
62. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người mang giày.
63. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh đi trên xe thuyền.
64. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh mà nằm.
65. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi bó gối.
66. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh đầu đội khăn nón.
67. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh đầu trùm kín.
68. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên đất trệt ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ trãi.
69. Ðiều cần phải học tập là khi ngồi trên chỗ thấp ta sẽ không thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi trên chỗ cao.
70. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đứng thuyết pháp đến người vô bệnh ngồi.
71. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía sau thuyết pháp đến người vô bệnh đang đi phía trước.
72. Ðiều cần phải học tập là ta sẽ không đi phía lề đường thuyết pháp đến người vô bệnh đi chính giữa đường.
Dứt mười sáu điều liên quan việc thuyết pháp.
73. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không đứng đại tiện hoặc tiểu tiện.
74. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không đứng đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trên thảo mộc xanh tươi.
75. Ðiều cần phải học tập là ta vô bệnh sẽ không đại tiện hoặc tiểu tiện hoặc khạc nhổ trong nước sạch.
Dứt ba điều linh tinh
Bạch chư Tôn giả, bảy mươi lăm điều ưng học pháp đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? Các Tôn giả trong đây được thanh tịnh bởi thế mới im lặng, tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
DỨT THUYẾT GIỚI ƯNG HỌC PHÁP.
-ooOoo-
THUYẾT GIỚI ÐIỀU DIỆT TRANH.
(Adhikaraṇasamathe vitthār'uddeso)
Ime kho pan'āyasmanto satta adhikara-ṇasamathā dhammā uddesaṃ āgacchanti.
Uppannuppannānaṃ adhikaraṇānaṃ sama-thāya vūpasamāya sammukhāvinayo daàtabbo sativi-nayo dātabbo amūḷhavinayo dātabbo paṭiññāya kāre-tabbaṃ yebhuyyasikā tassa pāpiyasikā tiṇavatthā-rako' ti.
Uddiṭṭhā kho āyasmanto satta adhikaraṇa-samathā dhammā.
Tatth' āyasmante pucchāmi kacci' ttha pari-suddhā? Dutiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā? Tatiyampi pucchāmi kacci'ttha parisuddhā?
Parisuddh' etth' āyasmanto tasmā tuṇhī eva-metaṃ dhārayāmi.
Adhikaraṇasamathā niṭṭhitā.
*
Bạch chư Tôn giả, đây là bảy pháp diệt tranh được tổng thuyết như sau:
Ðể lắng yên, hòa giải những vụ tố tụng đã khởi dậy, cần được đưa ra luật xử hiện diện, cần được đưa ra luật thừa nhận kẻ chánh niệm, cần được đưa ra luật thừa nhận kẻ bất si, cần được xử trị theo lời thú tội, giải quyết theo phần đông ý kiến, giải quyết theo mức tội phạm của đương sự, giải quyết nhượng bộ như cỏ che phủ.
Bạch chư Tôn giả, bảy pháp diệt tranh đã được tổng thuyết. Ở đây tôi xin hỏi các Tôn giả, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi, các Ngài được thanh tịnh chăng? lần thứ ba, tôi xin hỏi các Ngài được thanh tịnh chăng? Các Tôn giả trong đây được thanh tịnh nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
DỨT PHÁP DIỆT TRANH.
-ooOoo-
TỤNG PHẦN KẾT
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ.
Uddiṭṭhā cattāro pārājikā dhammā.
Uddiṭṭhā terasa saṅghādisesā dhammā.
Uddiṭṭhā dve aniyatā dhammā.
Uddiṭṭhā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā.
Uddiṭṭhā dvenavuti pācittiyā dhammā.
Uddiṭṭhā cattāro pāṭidesaniyā dhammā.
Uddiṭṭhā (pañcasattati) sekhiyā dhammā.
Uddiṭṭhā satta adhikaraṇasamathā dhammā.
Ettakaṃ tassa bhagavato suttāgataṃ suttapa-riyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati. Tattha sabbeh'eva samaggehi sammodamānehi avi-vadamānehi sikkhitabban' ti.
Viṭṭhāruddeso niṭṭhito
*
Bhikkhuppātimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
Bạch chư Tôn giả, duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; mười ba pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết; ba mươi pháp ưng xả đối trị đã được thuyết; chín mươi hai pháp ưng đối trị đã được thuyết; bốn pháp ưng phát lộ đã được thuyết; bảy mươi lăm ưng học pháp đã được thuyết; bảy pháp diệt tranh đã được thuyết. Bao nhiêu đó là giới, kinh điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Nơi đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
DỨT PHẦN THUYẾT TỔNG GIỚI
DỨT GIỚI BỔN TỲ KHƯU.
-ooOoo-
CÁCH TỤNG GIỚI BỔN TÓM TẮT
(SAṄKHEPA)
Trong ngày bố-tát, nếu lúc sắp tụng giới bổn, có xảy ra một trong mười trở ngại (antarāyika) thì chư tăng có thể tụng giới bổn tóm tắt, không phạm tội tác ác. Mười trở ngại ấy như sau:
1. Trở ngại vì vua đến (rājantarāyika).
2. Trở ngại vì trộm cướp (corantarāyika).
3. Trở ngại vì hỏa hoạn (aggi-antarāyika).
4. Trở ngại vì nước lụt (udakantarāyika).
5. Trở ngại vì đông người (manussantarā-yika).
6. Trở ngại vì phi nhơn (amanussantarāyika)
7. Trở ngại vì thú dữ (vālantarāyika)
8. Trở ngại vì rắn rít (siriṃsapantarāyika)
9. Trở ngại vì thiệt mạng (jīvitantarāyika)
10. Trở ngại vì nguy phạm hạnh (brahma-cariyantarāyika).
CÓ BỐN CÁCH TỤNG GIỚI BỔN TÓM TẮT:
I- Tụng giới bỏ bớt phần Vitthāruddeso, sau đó tụng phần kết thúc như vầy:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghā-disesā dhammā, uddiṭṭhā dve aniyatā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi tiṃsa nissaggiyāpācittiyā dhammā, dvenavuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭi-desanīyā dhammā (pañcasattati) sekhiyā dhammā satta adhikaraṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato suttāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍ-ḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sammodamānehi avivadamānehi sikkhi-tabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả, duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; mười ba pháp tăng tàng đã được thuyết; hai pháp bất định đã được thuyết. Còn lại các Tôn giả đã được nghe rồi như là ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần học tập với sự hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
II- Tụng giới bỏ bớt phần Aniyatuddeso và Vitthāruddeso, sau đó tụng phần kết thúc như vầy:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā cattāro pārājikā dhammā, uddiṭṭhā terasa saṅghādi-sesā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi dve aniya-tā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā, dve-navuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dham-mā, (pañcasattati) sekhiyā dhammā, satta adhikara-ṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato sut-tāgataṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ udde-saṃ āgacchati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sam-modamānehi avivadamānehi sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả, duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết; mười ba pháp tăng tàng đã được thuyết; Còn lại đã được chư Tôn giả nghe rồi như là hai pháp bất định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. bao nhiêu đó là kinh giới pháp điển của Ðức Thế Tôn, phải đọc tụng mỗi nửa tháng. Ở đây tất cả chúng ta cần phải học tập với sự hòa hợp hoan hỷ vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
III- Chỉ tụng giới hai phần là Nidānuddeso, và Pārājikuddeso rồi tụng phần kết như sau:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto nidānaṃ, uddiṭṭhā cattāro pārājikā dhammā. Sutā kho pan' āyasmantehi terasa saṅghādisesā dhammā dve aniyatā dhammā tiṃsa nissaggiyā pācittiyā dhammā dvenavuti pā-cittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasattati) sekhiyā dhammā satta adhikaraṇasa-mathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato suttāga-taṃ suttapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sammo-damānehi avivadamānehi sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả, duyên khởi đã được thuyết; bốn pháp triệt khai đã được thuyết. Còn lại đã được chư Tôn giả nghe rồi như là mười ba pháp tăng tàng, hai pháp bất định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu đó là kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Ở đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp, hoan hỷ, vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
IV- Chỉ tụng giới một phần là Nidānuddeso, rồi tụng phần kết như sau:
Uddiṭṭhaṃ kho āyasmanto. Sutā kho pan' āyasmantehi cattāro pārājikā dhammā, terasa saṅ-ghādisesā dhammā dve aniyatā dhammā tiṃsa nis-saggiyā pācittiyā dhammā dvenavuti pācittiyā dhammā cattāro pāṭidesanīyā dhammā (pañcasat-tati) sekhiyā dhammā satta adhikaraṇasamathā dhammā. Ettakaṃ tassa bhagavato suttāgataṃ sut-tapariyāpannaṃ anvaḍḍhamāsaṃ uddesaṃ āgac-chati. Tattha sabbeh' eva samaggehi sammodamā-nehi avivadamānehi sikkhitabban'ti.
Bhikkhuppāṭimokkhaṃ niṭṭhitaṃ.
*
Bạch chư Tôn giả, duyên khởi đã được thuyết. Còn lại đã được chư Tôn giả nghe rồi như là bốn pháp triệt khai, mười ba pháp tăng tàng, hai pháp bất định, ba mươi pháp ưng xả đối trị, chín mươi hai pháp ưng đối trị, bốn pháp ưng phát lộ, (bảy mươi lăm) ưng học pháp, bảy pháp diệt tranh. Bao nhiêu đó là kinh giới điển pháp của Ðức Thế Tôn, phải tụng đọc mỗi nửa tháng. Ở đây cần được tất cả chúng ta học tập với sự hòa hợp, hoan hỷ, vô tranh.
Dứt giới bổn tỳ-kheo.
Ðến đây đã kết thúc cách thức Tăng bố-tát (saṅgha-uposatha).
-ooOoo-
CÁCH THỨC GAṆA-UPOSATHA
Làm lễ bố-tát chỉ có hai hoặc ba vị Tỳ-kheo thì không tụng pāṭimokkha mà chỉ làm bằng cách phát lộ sự thanh tịnh. Cách bố-tát nầy vì vậy cũng được gọi là Parisuddhi-uposatha (thanh tịnh bố-tát).
Nếu chúng có ba vị thì phải tuyên ngôn trước khi mỗi vị phát lộ thanh tịnh, như sau:
Suṇantu me āyasmantā ajjuposatho paṇṇa-raso [16]. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ añ-ñamaññaṃ parisuddhi-uposathaṃ kareyyāma.
Thưa các Tôn giả, xin hãy nghe tôi, hôm nay là ngày bố-tát rằm. Nếu đã hợp thời với các Tôn giả, chúng ta phải làm thanh tịnh bố-tát lẫn nhau.
Sau khi tuyên ngôn, mỗi vị sẽ tuần tự hạ lạp phát lộ thanh tịnh, như sau:
Vị lớn hạ nhất hãy nói ba lần:
Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ dhāretha. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho .. pe ..
Các hiền giả tôi thanh tịnh, xin các vị nhận biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba ...
Các vị nhỏ hạ nói sādhu, rồi phát lộ 3 lần như vầy:
Ukāsa parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ dhāretha. Dutiyampi parisuddho ...pe... Tatiyampi parisuddho ...pe...
Thưa các Ngài, tôi thanh tịnh, xin các Ngài nhận biết tôi là người được thanh tịnh. Lần thứ hai ... Lần thứ ba...
Một vị phát lộ xong các vị khác đều nói Sādhu.
Nếu gana-uposatha chỉ có hai vị Tỳ-kheo thì không cần tuyên ngôn, chỉ tự mỗi vị phát lộ thanh tịnh cho biết nhau là được.
Vị lớn hạ phát lộ:
Parisuddho ahaṃ āvuso parisuddho' ti maṃ dhārehi. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho .. pe ..
Nầy Hiền giả, tôi thanh tịnh; ông hãy nhận biết là tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
Vị nhỏ hạ phát lộ:
Parisuddho ahaṃ bhante parisuddho' ti maṃ dhāretha [17]. Dutiyampi parisuddho ... pe ... Tatiyampi parisuddho .. pe ..
Bạch Ngài, tôi thanh tịnh, xin Ngài nhận biết là tôi thanh tịnh. Lần thứ nhì ... Lần thứ ba ...
DỨT GAṆA-UPOSATHA
-ooOoo-
CÁCH THỨC PUGGALA-UPOSATHA
Puggala-uposatha tức là Ðơn thân bố-tát. Khi vị Tỳ-kheo tại trú xứ vào ngày bố-tát không có các vị khác đến cùng làm lễ bố-tát thì một cũng phải làm lễ bố-tát bằng cách chú nguyện rằng:
Ajja me uposatho, Hôm nay là ngày bố-tát của ta.
Hoặc nguyện khác:
Ajja me uposatho paṇṇaraso' ti adhiṭṭhāmi, ta chú nguyện rằng hôm nay ngày rằm là ngày bố-tát của ta.
DỨT PUGGALA-UPOSATHA
DỨT LỄ BỐ TÁT
-ooOoo-
[1] Những vị Tỳ-kheo ngụ trong chùa cùng một ranh Sīmā, khi Tăng tụ họp làm tăng sự mà vị Tỳ-kheo nào bị bệnh hay hữu sự không thể vào tăng hội để dự tăng sự thì vị ấy phải nhắn gởi lời thoả hiệp (chanda) với một vị khác nhờ trình Tăng thì Tăng sự mới tiến hành tốt đẹp; nếu là tăng sự bố-tát (uposatha) thì ngoài việc gởi lời thoả hiệp (chanda), vị Tỳ-kheo ấy phải tỏ sự thanh tịnh (parisuddhi) của mình để nhờ trình tăng.
[2] Nếu trong ngày Bố-tát ấy không có vị nào gởi lời Chandapāri- suddhi thì nói "idha natthi", còn nếu có vị Tỳ-kheo bệnh gởi lời thì phải nói "idha atthi" và để cho vị nào trách nhiệm nhận lời đứng ra trình tăng.
[3] Việc kể mùa tiết xác định thời điểm bố-tát (utukkhānaṃ), vị Tỳ-kheo đáp luật phải rành rẽ cách tính, như thông thường mỗi mùa có 8 kỳ bố-tát, riêng mùa mưa (vāssāna utu) thì có 7 kỳ bố-tát và 1 kỳ tự tứ (satta ca uposathā ekā ca pavāraṇā); gặp năm nhuần, mùa có tháng nhuần thì có 10 kỳ bố-tát (dasa uposathā), phải kể: nay là mùa gì, trong mùa có mấy kỳ bố-tát, hiện đang kỳ bố-tát, đã trải qua mất kỳ hay chưa trải qua (natthi uposatho atikkanto); sẽ còn mấy kỳ hay đã đủ (aṭṭha uposathā paripuṇṇā).
[4] Tùy theo số Tỳ-kheo tăng hội mà nói như hiện có 5 vị thì nói gaṇanā pañca bhikkhū honti. Hiện có 8 vị thì nói gaṇanā aṭṭha bhikkhū honti .v.v...
[5] Theo lịch Ấn Độ thời xưa, tính một tháng có hai thời kỳ: Sukkhapakkha (thời sáng trăng) được 15 ngày, và kāḷapakkha (thời tối trăng) được 15 ngày hoặc 14 ngày (tháng đủ, tháng thiếu). Ngày cuối của mỗi thời (pakkha) gọi là paṇṇarasī (nhằm ngày rằm và 30 âl), ngày cuối của hạ huyền (kālapakkha) tháng thiếu gọi là catuddasī (nhằm ngày 29 âl tháng thiếu). ngày paṇṇarasī và ngày catuddasī nhất định là ngày bố-tát; còn ngày samaggī, tức là ngày hòa hợp, nghĩa là chư tỳ-kheo trước có bất hòa nhưng nay hòa hợp lại, thì ngày hòa hợp bất luận là ngày nào trong tháng cũng đều phải làm bố-tát để thanh tịnh Tăng. Nên nói có 3 ngày làm bố-tát là vậy.
[6] Nếu lễ bố-tát hôm ấy là ngày nào thì phải nói rõ.
[7] Hai mươi mốt hạng người không nên cho vào tăng sự bố-tát là: người thế tục, Tỳ-kheo ni, học nữ, sa-di, sa-di-ni, người xả giới, người phạm tội cực nặng, người bị treo tội vì nghi, người bị treo tội vì không hối cải, người bị treo tội vì không bỏ ác kiến, người lại cái, người giả tu, người ngoại giáo, loài súc sanh, người giết mẹ, người giết cha, người giết vị A-La-Hán, người dâm Tỳ-kheo ni, người chia rẽ tăng, người trích máu Phật, người lưỡng tính.
[8] Thay đổi tên này lễ bố-tát: paṇṇaraso hoặc catuddaso hoặc samaggo.
[9] Về đơn vị đo lường, 1 gang tay Ðức Phật khó xác định là bao nhiêu; có nhiều sách giải thích khác nhau, chỉ biết rằng 1 gang của Ðức Phật bằng 3 gang người thường (20 cm x 3 = 60 cm). Như vậy có thể tịnh thất 4,20 m x 7,20 m.
[10] Một do tuần (yojana) bằng 16 km; tuy nhiên có vài sách giải thích khác nhau về đơn vị đo nầy.
[11] Tháng Kattika có hai: 1) pubbakattika hay còn gọi là kattikate-māsikā (tháng 9 âl) và 2) pacchimakattika hay còn gọi là kattikacātumāsika (tháng 10 âl) .
[12] Biệt thí y (accekacīvaraṃ) là y đặc biệt, ngoại lệ.
[13] Hạn kỳ cho phép giữ y, là 1 tháng cuối mùa mưa, nếu có quả báo Kaṭhina thì thêm thời hạn 4 tháng mùa lạnh.
[14] Lối 5 dm (5 tấc tây). Theo chú giải, 1 ngón tay của Ðức Phật bằng 3 ngón tay người thường.
[15] Ðã dẫn chú thích trong điều 6 của giới Tăng tàng (saṅghādisesa).
[16] Ngày rằm hay 30 âl đều nói là paṇṇaraso nếu là ngày 29 âl của tháng thiếu thì nói là catuddaso .
[17] Vì cung kính nên dùng động từ số nhiều, dù chỉ nói với một vị trưởng lão.
-ooOoo-
Ngày tự tứ là ngày chư Tỳ-kheo mãn an cư mùa mưa (ra hạ), rằm tháng 9 âl, ngày ấy chư Tỳ-kheo không làm lễ bố-tát tụng giới mà phải làm lễ tự tứ (pavāraṇā) .
Lễ tự tứ có 3 là:
1. Tăng tự tứ (saṅghappavāraṇā), nơi có từ 5 vị tỳ-kheo trở lên làm lễ tự tứ, gọi là saṅghappa-vāraṇā.
2. Nhóm tự tứ (gaṇappavāraṇā), nơi chỉ có hai, ba, hoặc bốn vị Tỳ-kheo làm lễ tự tứ, gọi là gaṇappavāraṇā.
3. Cá nhân tự tứ (puggalappavāraṇā) chỉ có một vị Tỳ-kheo đơn thân làm lễ tự tứ, gọi là pugga-lappavāraṇā.
CÁCH THỨC TĂNG TỰ TỨ (SAṄGHAPPAVĀRAṆA).
Khi bắt đầu vào lễ Tự tứ. Tăng phải cử ra hai vị rành mạch để hỏi đáp luật; cũng giống như trường hợp hành lễ Bố-tát, chỉ có một vài điểm đổi khác.
Lời vấn đáp luật như sau:
Vấn: Namo tassa bhagavato arahato sam-māsambuddhassa. Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ āyasmantaṃ itthan-nāmaṃ vinayaṃ puccheyyaṃ.
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch Ðại Ðức Tăng, xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin hỏi luật Tôn-giả tên vậy.
Ðáp: Namo tassa bhagavato arahato sam-māsambuddhassa. Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ āyasmatā itthannāme-na vinayaṃ puṭṭho vissajjeyyaṃ.
Kính lễ Ðức Thế Tôn Ưng Cúng Chánh Biến Tri ... Bạch Ðại Ðức Tăng, xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, tôi sẽ đáp luật do Tôn-giả tên vậy đã hỏi.
Vấn: Sammajjanī padīpo ca udakaṃ āsanena ca pavāranāya etāni pubbakaraṇan' ti vuccati. Ukāsa sammajjanī?
Sự quét dọn, đèn đuốc, nước nôi và chỗ ngồi, các việc đó là tiền sự của ngày tự tứ. Vậy sự quét dọn là gì?
Ðáp: Sammajjanakaraṇañca
Là việc lau quét sạch sẽ chỗ làm lễ.
Vấn: Padīpo ca?
Sao là đèn đuốc?
Ðáp: padīpa-ujjalanañca. Idāni suriyālokassa natthitāya padīpakiccaṃ atthi.
(Hoặc là ... Idāni suriyālokassa atthitāya pa-dīpakiccaṃ natthi).
Là việc thắp sáng đèn đuốc. Bây giờ cần đốt đèn vì không có ánh sáng mặt trời.
(Hoặc là ... bây giờ không cần đốt đèn vì có ánh sáng mặt trời) .
Vấn: Udakaṃ āsanena ca?
Nước và chỗ ngồi là sao?
Ðáp: āsanena saha pānīyabhojanīya-udakaṭ-ṭhapanañca.
Là sự sắp đặt nước uống nước rửa cùng với tấm trải ngồi nơi làm lễ.
Vấn: Pavāraṇāya etāni pubbakaraṇan'ti vuc-cati?
Nói rằng đó là tiền sự trong ngày tự tứ, là sao?
Ðáp: Etāni cattāri vattāni sammajjanakara-ṇādīni saṅghasannipātato paṭhamaṃ kattabbattā pavāraṇāya pavāraṇākammassa pubbakaranan'ti vuc-cati pubbakaraṇānī' ti akkhātāni.
Gọi là tiền sự của ngày tự tứ, tức là bốn việc đó như quét dọn, v.v... cần phải làm trước khi Tăng tụ họp. Những việc đó được gọi là những tiền sự vậy.
Vấn: Chandappavāraṇā utukkhānaṃ bhik-khugaṇanā ca ovādo pavāranāya etāni pubbakiccan' ti vuccati. Chandappavāraṇā?
Trình lời thỏa hiệp, cùng lời tự tứ, kể mùa tiết, đếm tăng số, ban giáo giới, những việc đó gọi là tiền phận sự của lễ tự tứ. Việc trình lời thoả hiệp cùng lời tự tứ là sao?
Ðáp: Chandārahānaṃ bhikkhūnaṃ chan-dappavāraṇāharanañca. Idha natthi. (Idha natthi).
Tức là đem lời thoả hiệp và lời tự tứ của các vị Tỳ-kheo đáng gởi lời. Hôm nay không có. (Hôm nay có việc ấy) [1]
Vấn: Utukkhānaṃ?
Việc kể mùa tiết?
Ðáp: Hemantādīnaṃ tinnaṃ utūnaṃ etta-kaṃ atikkantaṃ ettakaṃ avasiṭṭhan' ti evaṃ utu ācikkhanaṃ utūnī' dha pana sāsane hemantagimha-vassānānaṃ vasena tīni honti. Ayaṃ vassāna-utu asmiṃ utumhi satta ca uposathā ekā ca pavāraṇā; (nếu làm tự tứ rằm tháng 9). Iminā pakkhena pavāra-ṇādivaso sampatto pañca uposathā atikkantā dve uposathā avasiṭṭhā. (nếu là ngày cuối tháng 9). Iminā pakkhena pavāraṇādivaso sampatto cha uposathā atikkantā eko uposatho avasiṭṭho. (nếu là ngày rằm tháng 10) Iminā pakkhena pavaraṇādivaso sampatto satta uposathā atikkantā satta ca uposathā ekā ca pavāra-ṇā paripuṇṇā.
Sự kể mùa tiết là như vầy, nói rằng "trong ba mùa như mùa lạnh v.v... đã trải qua mấy kỳ, còn lại mấy kỳ". Trong phật giáo có ba mùa là mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa. Nay là mùa mưa, trong mùa này có bảy kỳ bố-tát và một kỳ tự tứ; (Rằm tháng 9) kỳ này là ngày tự tứ, đã trải qua năm kỳ bố-tát, còn lại hai kỳ bố-tát nữa. (cuối tháng 9) kỳ này là ngày tự tứ, đã trải qua sáu kỳ bố-tát, còn lại một kỳ bố tát nữa. (Rằm tháng/ 10) kỳ này là ngày tự tứ, đã trải qua bảy kỳ bố-tát, bảy kỳ bố-tát và một kỳ tự tứ tròn đủ rồi.
Vấn: Bhikkhugaṇanā ca?
Việc đếm số lượng Tỳ-kheo?
Ðáp: Imasmiṃ pavāraṇagge sannipatitānaṃ bhikkhūnaṃ gaṇanā "pañca" [2] bhikkhū honti.
Tại tự tứ phòng này, số lượng Tỳ-kheo cu hội là "năm" vị Tỳ-kheo.
Vấn: Ovādo?
Việc giáo giới?
Ðáp: Bhikkhunīnaṃ ovādo dātabbo. Idāni pana tāsaṃ natthitāya so ca ovādo idha natthi.
Là việc phải ban giáo huấn đối với Tỳ-kheo ni. Bây giờ không còn Tỳ-kheo ni nên ở đây không có việc giáo giới ấy.
Vấn: Pavāraṇāya etāni pubbakiccan'ti vuccati?
Nói rằng, những việc đó là tiền phận sự của lễ tự tứ, là sao?
Ðáp: Etāni pañca kammāni chandappavāra-ṇādīni ñattiyā ṭhapanato paṭhamaṃ kattabbattā pa-vāraṇāya pāvāraṇākammassa pubbakiccan'ti vucca-ti pubbakiccānī' ti akkhātāni.
Gọi là tiền phận sự của lễ tự tứ, tức là nói những việc phải làm trước; trong ngày tự tứ có năm việc cần làm trước khi sắp đặt tuyên ngôn, như là đưa lời thỏa hiệp, lời tự tứ v.v...
Vấn: Pavāraṇā yāvatikā ca bhikkhū kam-mappattā sabhāgāpattiyo ca na vijjanti vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti pattakallan'ti vuccati. Pa-varaṇā?
Ðúng ngày tự tứ, có đủ số Tỳ-kheo tác thành tăng sự, không có phạm đồng tội, trong tăng hội không có những hạng người phải tránh, đó được gọi là đã đúng thời. Ngày tự tứ là gì?
Ðáp: Dvisu pavāraṇādivasesu catuddasīpaṇ-ṇarasīsu. Ajja pavāraṇā "paṇṇarasī".
Làm lễ trong hai ngày tự tứ, là ngày 14 âl hoặc ngày rằm. Hôm nay lễ tự tứ "ngày rằm". [3]
Vấn: Yāvatikā ca bhikkhū kammappattā?
Ðủ số Tỳ-kheo tác thành tăng sự, là sao?
Ðáp: Yattakā bhikkhū tassa pavāraṇā-kam-massa pattāyuttā anurūpā sabbantimena paricche-dena pañca bhikkhū pakatattā saṅghena anukkhittā te ca kho hatthapāsaṃ avijjahitvā ekasīmāyaṃ ṭhitā.
Tối đa bao nhiêu vị Tỳ-kheo cũng phải lẽ, thích hợp, tác thành tăng sự tự tứ ấy cả; nhưng giới hạn tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo trong sạch không bị Tăng nghi tội, và các vị ấy đồng trụ trong cùng sīmā không cách biệt khoảng hắc tay .
Vấn: Sabhāgāpattiyo ca na vijjanti?
Không có phạm đồng tội là sao?
Ðáp: Vikālabhojanādivatthusabhāgāpattiyo ca na vijjanti.
Là không có các tội bị phạm giống nhau như là đồng phạm tội ăn phi thời chẳng hạn.
Vấn: Vajjanīyā ca puggalā tasmiṃ na honti?
Trong chúng không có hạng người cần tránh, là sao?
Ðáp: Gahaṭṭhapaṇḍakādayo ekavīsati vajja-nīyapuggalā hatthapāsato bahikaraṇavasena vajje-tabbā tasmiṃ na honti.
Là trong chỗ tăng hội ấy không có 21 hạng người phải cách ly, chẳng hạn như người thế tục, người bộ nấp v.v... nên cách xa ngoài hắc tay.
Vấn: Pattakallan'ti vuccati?
Sao gọi là hợp thời?
Ðáp: Saṅghassa pavāraṇākammaṃ imehi catūhi lakkhaṇehi saṅgahitaṃ pattakallan' ti vuccati pattakālavantan' ti akkhātaṃ.
Gọi là hợp thời tức là nói đến tăng sự đúng thời điểm để làm, như việc tự tứ của tăng đã hội đủ bốn yếu tố này vậy.
*
Khi hỏi luật xong, vị vấn phải bạch thỉnh tụng tuyên ngôn tự tứ như sau:
Pubbakaraṇapubbakiccāni samāpetvā desitā-pattikassa samaggassa bhikkhusaṅghassa anumatiyā ñattiṃ ṭhapetuṃ ajjhesanaṃ karomi.
Khi đã hoàn tất các tiền sự và tiền phận sự, theo sự chấp nhận của Tăng Tỳ-kheo đã sám hối tội và hòa hợp rồi, tôi xin thỉnh cầu Ngài đọc tuyên ngôn.
TUYÊN NGÔN TỰ TỨ
Phần vấn đáp luật vừa xong, tiếp theo vị luật sư xướng tuyên ngôn tự tứ. Tùy theo hoàn cảnh cho phép mà xướng tuyên ngôn cáo bạch; có 4 trường hợp:
a) Rộng thời gian và không có điều chi trở ngại, thì mỗi vị Tỳ-kheo phải tác bạch ba lời tự tự (Tevācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ajjappavāraṇā paṇ-ṇarasī. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho tevaci-kaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ, nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ ba lời.
b) Hoàn cảnh gấp rút vì có điều trở ngại xảy ra, như có hiểm nạn phạm hạnh v.v... cần làm tăng sự nhanh chóng thì cáo bạch cho Tăng biết chỉ nên mỗi vị tự tứ hai lời (dvevācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ brahmaca-riyantarāyo [4] sace saṅgho tevācikaṃ pavāressati appavārito va saṅgho bhavissati. Yadi saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho dvevācikaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự tứ ba lời, e Tăng chúng sẽ không được tự tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ hai lời.
c) Hoàn cảnh khẩn cấp nữa, không đủ thời gian để mỗi vị tự tứ hai ba lời, thì nên đề nghị mỗi vị chỉ tự tứ một lời (ekavācikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ brahmaca-riyantarāyo sace saṅgho tevācikaṃ pavāressati ap-pavārito va saṅgho bhavissati yadi saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho ekavācikaṃ pavāreyya.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự tứ ba lời, e Tăng chúng sẽ không được tự tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ một lời.
d) Hoàn cảnh thúc bách hơn, không đủ thời gian để mỗi vị tự tứ một, hai, ba lời, thì nên đề nghị chư Tăng các vị đồng hạ cùng tự tứ một lượt (samānavassikā pavāraṇā), trường hợp này tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ brahmaca-riyantarāyo sace saṅgho tevācikaṃ pavāressati appa-vārito va saṅgho bhavissati yadi saṅghassa pattakal-laṃ saṅgho samānavassikaṃ pavāreyya.
Bạch Ðại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, nay có điều trở ngại cho phạm hạnh, nếu Tăng tự tứ ba lời, e tăng chúng sẽ không được tự tứ đủ cả. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ đồng hạ lạp.
*
Còn một trường hợp khác, dù không có xảy ra điều tai hại chi, nhưng trong tăng hội có các vị niên cao lạp lớn sức khỏe kém không thể ngồi lâu để nghe từng vị tự tứ, vậy phải đề nghị Tăng tự tứ theo đồng hạ lạp, bằng cách khác (aññathā pavā-raṇā), trường hợp này sẽ tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, ajjappavāraṇā paṇṇarasī ayaṃ ca bhikkhusaṅgho bahutaro hoti sace ekeko bhikkhu paccekaṃ pavāressati saṅghassa pavāraṇākammaṃ aticiraṃ pavattissati mahallakā ca mahātherā ciraṃ nisīdituṃ na sakkhissanti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho samānavassikaṃ pavāreyya.
Bạch Ðại đức Tăng, hãy nghe tôi, hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ, Tỳ-kheo tăng này quá đông nếu mỗi vị Tỳ-kheo tự tứ riêng biệt thì việc tự tứ sẽ diễn ra rất lâu, các vị đại lão già cả không thể ngồi lâu được, vậy nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên tự tứ theo đồng hạ lạp.
*
Sau tuyên ngôn là đến lúc các Tỳ-kheo tự tứ lần lượt. Lời tự tứ, tỏ với Tăng như vầy:
Saṅghaṃ bhante pavāremi diṭṭhena vā sutena vā parisaṅkāya vā vadantu maṃ āyasmanto anukam-paṃ upādāya passanto paṭikarissāmi.
Bạch quí Ngài, Tôi xin yêu cầu Tăng chúng, quí Ngài hãy vì lòng thương tưởng mà nhắc nhở tôi nếu thấy hoặc nghe hoặc nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi sẽ sám hối.
Có thể yêu cầu ba lần, hoặc hai, hoặc một, tùy theo hoàn cảnh thời gian mà trong tuyên ngôn vị luật sư đã đề nghị.
Lại nữa trong lời tự tứ tỏ với tăng ấy, nếu đối với vị cao hạ nhất trong tăng hội thì vị ấy sẽ nói āvuso (các hiền giả) thay vì bhante (quí ngài).
DỨT CÁCH THỨC TĂNG TỰ TỨ.
-ooOoo-
CÁCH THỨC NHÓM TỰ TỨ
(GAṆAPPAVĀRAṆĀ)
Nhóm (gaṇa) là chỉ 2 hoặc 3 hoặc 4 vị Tỳ-kheo. không gọi là tăng tự tứ vì nếu có 2 vị thì một tự tứ với một, nếu có 3 vị thì một tự tứ với hai, nếu có 4 vị Tỳ-kheo một tự tứ với ba, như vậy không thành tự tứ với tăng (4 vị Tỳ khưu).
Tự tứ với Nhóm, không cần vấn đáp luật, chỉ cần có tuyên ngôn cáo bạch, rồi lần lượt mỗi vị tự tứ. Một vị Tỳ-kheo thông hiểu hãy tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āyasmanto ajjappavāraṇā paṇ-ṇarasī. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ aññamaññaṃ tevācikaṃ pavāreyyāma.
Thưa chư Tôn giả, xin hãy nghe tôi, hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ. Nếu đã hợp thời với chư Tôn giả, chúng ta nên tự tứ với nhau ba lần.
Tiếp đến các vị Tỳ-kheo sẽ lần lượt nói lời tự tứ, như sau:
Ahaṃ bhante [5] āyasmante pavāremi diṭṭhe-na vā sutena vā parisaṅkāya vā vadantu maṃ āyas-manto anukampaṃ upādāya passanto paṭikarissāmi. Dutiyampi ahaṃ .. pe .. Tatiyampi ahaṃ .. pe ..
Bạch quí Ngài, tôi xin yêu cầu quí Ngài, quí Ngài hãy vì lòng thương tưởng mà nhắc nhở tôi do đã thấy, đã nghe hoặc nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi sẽ sám hối. Lần thứ nhì ... Lần thứ ba.
Trường hợp có 2 vị tự tứ với nhau, không cần phải vấn đáp cũng khỏi tuyên ngôn (ñatti), chỉ tỏ lời tự tứ là đủ, nói như sau:
Ahaṃ bhante āyasmantaṃ pavāremi diṭṭhe-na vā sutena vā parisaṅkāya vā vadatu maṃ āyasmā anukampaṃ upādāya passanto paṭikarissāmi. Dutiyampi... pe. Tatiyampi ahaṃ... pe.
Bạch Tôn giả, tôi xin yêu cầu Ngài, xin Ngài hãy vì thương tưởng mà nhắc nhở tôi do đã thấy, đã nghe, hoặc đã nghi ngờ gì; khi thấy lỗi tôi sẽ sám hối. Lần thứ nhì ... lần thứ ba.
DỨT CÁCH NHÓM TỰ TỨ.
-ooOoo-
CÁCH THỨC CÁ NHÂN TỰ TỨ
(PUGGALAPPAVĀRAṆĀ).
Ðến ngày tự tứ, Tỳ-kheo chỉ có một mình tại trú xứ nhập hạ, phải chú nguyện ngày tự tứ như sau:
Ajja me pavāraṇā paṇṇarasī.
Hôm nay ngày rằm là ngày tự tứ của ta.
DỨT CÁCH CÁ NHÂN TỰ TỨ.
-ooOoo-
PHÉP DỜI NGÀY TỰ TỨ
(Pavāranāsaṅgahitakaraṇa)
Trong ngày mãn hạ, tức là ngày rằm tháng Kattika (9 âl), nếu chư tăng ở tại chùa đó có duyên cớ chi đặc biệt nên không thể làm lễ Tự tứ cùng nhau được thì hãy dời lại vào ngày khác, còn ngày ấy thì làm bố-tát (uposatha).
Nên cho một vị Tỳ-kheo nào thông hiểu đứng ra tuyên ngôn cáo bạch trình tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho avāsiko. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho idāni uposathaṃ kareyya pāṭimokkhaṃ uddiseyya āgame kāle pavāreyya.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Tăng không ở yên, nếu đã hợp thời với Tăng, bây giờ tăng phải nên làm bố-tát thuyết giới bổn, lúc sau hãy tự tứ.
Trường hợp tuyên ngôn trình nhóm vài vị Tỳ-kheo thì đọc như sau:
Suṇantu me āyasmantā avāsikā. Yad'āyas-mantānaṃ pattakallaṃ mayaṃ idāni uposathaṃ ka-reyyāma pāṭimokkhaṃ uddiseyyāma āgame kāle pavāreyyāma.
Thưa chư Tôn giả, xin hãy nghe tôi, các vị không ở yên. Nếu đã hợp thời với các Tôn giả, thì bây giờ chúng ta chỉ nên làm bố-tát tụng giới bổn, lúc sau hãy tự tứ.
Ngày tự tứ có thể dời lại ngày sau, tức là trong hai kỳ bố-tát cuối mùa mưa, cuối tháng chín âl hoặc rằm tháng mười âl, Nhưng không thể quá mùa mưa.
DỨT LỄ TỰ TỨ.
-ooOoo-
TĂNG SỰ GIAO Y KAṬHINA
(KAṬHINADĀNA)
Sau khi mãn hạ, thời gian từ 16 tháng 9 âl đến rằm tháng 10, tháng cuối của mùa mưa, nếu có thí chủ cúng dường vải may y đến chư Tỳ-kheo, vị Tỳ-kheo đước phép thọ lảnh để làm y Kaṭhina.
Tại một chùa hay một trú xứ an cư chư Tỳ-kheo chỉ được phép lãnh y Kaṭhina một lần, một dịp sau khi ra hạ; chư tăng sẽ chọn giao y Kaṭhina cho một vị Tỳ-kheo nào đó, vị ấy thọ lãnh (atthataṃ) và các vị khác trong chùa sẽ tùy hỷ (anumodanā), và như thế tất cả Tỳ-kheo ở đó sẽ được hưởng năm lợi ích (anisaṃsa) đồng nhau; tức là suốt thời gian từ ngày thọ y đến hết mùa nắng (gimha-utu) vị Tỳ-kheo lìa tam y cách đêm không phạm tội ưng xả đối trị, cất giữ y dư quá mười ngày không phạm tội ưng xả đối trị, rủ nhau thành nhóm thọ thực biết trước món ăn không phạm tội ưng đối trị, đi vào xóm chưa kiếu từ vị sư bạn cũng không phạm ưng đối trị, và được hưởng chia bất cứ lợi lộc nào phát sanh tại đấy. Ðó là năm lợi ích cho vị lãnh và vị tùy hỷ y Kaṭhina.
CÁCH THỨC TÁC THÀNH Y KAṬHINA:
Tăng sự giao y Kaṭhina túc số tăng tối thiểu cũng phải có năm vị Tỳ-kheo, 4 vị giao cho một vị, phải cử hành trong phạm vi Sīmā (ngoại trừ việc nguyện thọ y và tùy hỷ y, có thể làm ngoài Sīmā).
Vị Tỳ-kheo được chọn để giao thọ y Kaṭhina phải là vị đã nhập hạ tròn đủ (không đứt hạ, không phải hậu thời an cư rằm tháng bảy), vị ấy có y cũ rách, thông hiểu cách thức làm Kaṭhina.
Khi giao y cho vị Tỳ-kheo thọ lãnh Kaṭhina cần phải làm tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidu-tiyakammavācā) như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho imaṃ Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya Kaṭhinaṃ attharituṃ. Esā ñatti. Suṇātu me bhante saṅgho idaṃ saṅghassa Kaṭhinadussaṃ uppannaṃ. Saṅgho imaṃ Kaṭhina-dussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno deti Kaṭhinaṃ at-tharituṃ. Yass' āyasmato khamati imassa Kaṭhina-dussassa Itthannāmassa bhikkhuno dānaṃ kaṭhi-naṃ attharituṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnaṃ idaṃ saṅghena Kaṭhinadussaṃ Itthannāmassa bhikkhuno Kaṭhinaṃ attharituṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, đây là vải Kaṭhina phát sanh đến tăng. Chúng tăng nên giao vải Kaṭhina này cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y kaỉhina; sự giao vải Kaṭhina nầy cho Tỳ-kheo tên vậy làm y Kaṭhina, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nói ra.
Vải Kaṭhina này đã được tăng giao cho Tỳ-kheo tên vậy để làm y Kaṭhina, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
*
Sau khi tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo được tăng giao vải Kaṭhina phải nhanh chóng làm cho xong y trong ngày, tuần tự công việc là đo, cắt, lược, may, giặt, nhuộm, và làm dấu hoại sắc.
Làm dấu hoại sắc, là dùng mực màu xanh hoặc đen hoặc xám, khuyên tròn bốn góc y, dấu khuyên cỡ bằng tròng mắt gà, lúc đang làm dấu phải tác ý:
Imaṃ bindukappaṃ karomi,
Ta làm dấu này.
Ngày nay thí chủ thường dâng Kaṭhina với y may sẳn nên vị Tỳ-kheo không bận việc may nhuộm nữa, chỉ còn công việc là làm dấu y (bindukappa) thôi.
Làm dấu y mới xong, phải xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới. Vải Kaṭhina đã may thành một y nào trong tam y, thì xả bỏ y cũ và chú nguyện tên y mới phải theo thứ đó; chẳng hạn may y Kaṭhina là y Tăng-già-lê (saṅghāṭi), thì xả bỏ y Tăng-già-lê cũ, và nguyện tên y Tăng-già-lê mới.
Lời xả tên y cũ (paccuddhara) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ [6] paccuddharāmi.
Ta xả bỏ y tăng-già-lê này.
Lời nguyện tên y mới (adhiṭṭhāna) như sau:
Imaṃ saṅghātiṃ adhiṭṭhāmi.
Ta chú nguyện y tăng-già-lê này.
Khi vị Tỳ-kheo ấy đã hoàn tất y, may làm dấu, chú nguyện, và đắp mặc rồi hãy đến trước Tăng chúng mà tuyên bố sự thành tựu y Kaṭhina, như sau:
Imāya saṅghaṭiyā [7] Kaṭhinaṃ attharāmi.
Tôi thọ Kaṭhina với y Tăng-già-lê nầy.
Nếu trong chùa đó có nhiều vị Tỳ-kheo đã cùng nhập hạ thì vị thọ lãnh y Kaṭhina ấy tiếp theo đó phải kêu gọi các vị trong chùa tùy hỷ Kaṭhina với mình, hãy nói như sau:
Atthataṃ bhante [8] saṅghassa Kaṭhinaṃ dhammiko Kaṭhinatthāro anumodatha [9].
Bạch quí Ngài, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành, sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp xin quí Ngài hãy tùy hỷ.
Các vị trong chùa ấy đồng nói lời tùy hỷ, như sau:
Atthataṃ āvuso saṅghassa Kaṭhinaṃ dham-miko Kaṭhinatthāro anumodāma.[10]
Hiền giả, y Kaṭhina của tăng đã hoàn thành sự thọ lãnh Kaṭhina đã đúng pháp, chúng tôi xin tùy hỷ.
*
Trong thời gian hưởng quyền lợi do hiệu lực Kaṭhina, vị Tỳ-kheo đã thọ hoặc tùy hỷ không nên rời khỏi trú xứ ấy với ý nghĩ là ta sẽ không trở lại chỗ này; vì hai điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina là y chưa thành (cīvarapalibodha) và chỗ an cư (āvāsa-palibodha); nay y đã Kaṭhina hoàn thành rồi, chỉ còn một điều kết buộc hiệu lực Kaṭhina tức là vương vấn chỗ an cư.
Tuy nhiên, hiệu lực Kaṭhina vẫn có một lý do khác làm hoại mất, ấy là chư tăng trong chùa đồng lòng xả bỏ hiệu lực.
Khi có duyên cớ phải xả hiệu lực Kaṭhina, như có thí chủ yêu cầu để cúng dường lợi lộc đến khách tăng chẳng hạn, thì chư tăng trong chùa nếu xét hợp lý hãy họp tăng, và làm tăng sự hủy hiệu lực Kaṭhina (Kaṭhinuddhara). Một vị thông thạo luật sẽ tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Kaṭhinaṃ uddha-reyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho Kaṭhinaṃ uddharati. Yass' āyasmato khamati Kaṭhinassa uddharo so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Ubbhataṃ saṅghena Kaṭhinaṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī . Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch Ðại đức tăng,xin hãy nghe tôi, nếu đã hợp thời với Tăng, thì tăng phải xả bỏ Kaṭhina. Ðó là lời bố cáo.
Bạch Ðại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Tăng xả bỏ Kaṭhina Ṣự xả bỏ Kaṭhina, Tôn giả nào chấp nhận thì vị ấy im lặng, bằng như vị nào không đồng ý phải nói ra. Hiệu lực kaỉhina đã được tăng xả bỏ rồi; Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi Tăng đã đồng lòng xả bỏ hiệu lực Kaṭhina bằng tăng sự nhị bạch tuyên ngôn như thế thì hiệu lực Kaṭhina không còn nữa, dù có một vị Tỳ-kheo nào trong chùa bận vắng mặt không dự tăng sự nhưng cũng hết quả báo (anisaṃsa) cùng lúc với các vị ở chùa.
DỨT SỰ GIAO Y KAṬHINA
-ooOoo-
TĂNG SỰ KẾT GIỚI SĪMĀ
Sīmā là ranh giới, biên giới, lằn kẽ phân địa hạt. Ðịa phận mà được ấn định làm ranh nơi tăng hòa hợp giải quyết tăng sự, bằng cách đánh dấu cột mốc chung quanh, địa phận ấy gọi là vùng Sīmā.
Sīmā hay cương giới có hai loại là:
1. Sīmā có đánh dấu (baddhasīmā) tức là cương giới có đặt cột mốc (nimitta) làm dấu ranh.
2. Sīmā không đánh dấu (abaddhasīmā) tức là cương giới được giới hạn mơ hồ, không có đặt cột mốc làm dấu ranh, chẳng hạn như tạm thời ấn định phạm vi một làng v.v...
Ðề cập đến baddhasīmā (cương giới đặt cột mốc). Loại sīma nầy kiên cố, đảm bảo cho sự hòa hợp tăng hành tăng sự.
Ðiều kiện tác thành cương giới Sīmā là:
a) Hợp lý về dấu ranh (nimittasampatti)
b) Hợp lý về tăng hội thực hiện (parisāsam-patti)
c) Hợp lý về tuyên ngôn tăng sự (kammavā-cāsampatti).
Hợp lý về dấu ranh, nghĩa là cột mốc (nimitta) phải là vật đúng qui cách luật cho phép; có 8 thứ là ngọn núi (pabbata), đá tảng (pāsāna), khu rừng già (vana), cội cây (rukkha), đường lộ (mag-ga), gò mối (vammika), dòng sông (nadī), vũng nước (udaka). Tám thứ ấy khi lấy làm mốc ranh vị luật sư phải xem xét kỹ chọn cho đúng qui cách, thí dụ lấy đá tảng phải chọn kích cỡ không lớn quá con bò, trọng lượng nặng trên 64 cân ta (= 38,4 kg) v.v...
Mặt khác, vật ranh ấy phải đặt theo các hướng của địa bàn, tối thiểu cũng 3 điểm hướng thành hình tam giác, nếu 4 điểm hướng thành hình tứ giác v.v... không nên chỉ hai hướng hoặc một hướng, vì không thành hình thức mặt bằng.
Thêm nữa, khi đi xác minh cột mốc ranh hướng, vị Luật sư phải xác minh theo từng hướng thứ tự và vòng qua hướng khởi điểm, như thế mới gọi là ranh bao bọc, thí dụ: Ðông - Nam - Tây - Bắc - Ðông.
Ðiều kiện thứ hai, hợp lý về tăng hội thực hiện, nghĩa là hội chúng (parisā) Tỳ-kheo phải có túc số tối thiểu từ 4 vị đến nhiều hơn; các vị trong tăng hội phải thanh tịnh, hòa hợp, đứng hoặc ngồi không cách khoảng nhau quá hắc tay (hatthapāsa) .
Mặt khác khi tăng thực hiện kết giới phải đứng trong vòng ranh mà ấn định; không nên đứng phía ngoài vòng ranh mà ấn định Sīmā vì đứng bên ngoài thực hiện sẽ bất thành Sīmā.
Ðiều kiện thứ ba, hợp lý về tuyên ngôn tăng sự. Tuyên ngôn (kammavācā) thực hiện kết giới Sīmā phải là hình thức nhị bạch tuyên ngôn (ñatti-dutiyakammavācā), không thể làm khác; và phải tùy ý nghĩa loại Sīmā mà lập tuyên ngôn. Có 3 loại hình Sīmā:
a) Samānasaṃvāsasīmā, cương giới ấn định chỗ cộng trú hòa hợp tăng. Loại sīmā này nhất định phải hình thành trong mọi địa bàn.
b) Ticīvarāvippavāsasīmā, cương giới ấn định thành nơi cho phép lìa xa tam y. Loại sīmā này không nhất thiết phải ấn định, có thể hình thành tùy địa bàn; tức là nơi mà có Samānasaṃvāsasīmā bao trùm cả những trú xứ của chư Tỳ-kheo, thì Ðức Phật cho phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā để để các vị Tỳ-kheo khỏi phạm tội do xa lìa tam y cách đêm; tuy nhiên, nếu mahāsīmā đó tọa lạc trong làng xóm hoặc quá cận làng (gāmañca gāmū-pacārañca) vẫn không được phép ấn định thành Ticīvarāvippavāsasīmā.
c) Khaṇḍasīmā, cương giới nhỏ hay cương giới ấn định thành bố-tát đường (uposathāgārasam-mati). Nếu Mahāsīmā tức samānasaṃvāsasīmā có phạm vi quá rộng bao gồm cả tăng xá, giảng đường, phòng ăn, nhà xí ... thì để thuận tiện cho việc họp Tăng làm bố-tát, tự tứ ... Ðức Phật cho phép Tăng ấn định một ngôi nhà làm bố-tát đường hay chánh điện. Theo đây thấy rằng, nếu samānasaṃvāsasīma đã ấn định chỉ nội phạm vi chánh điện thì không cần làm thêm khaṇḍasīmā cũng được; mà làm để đặt tên chùa cũng được.
Cách thức xác định cột mốc ranh giới.
Nếu không tiện cho tất cả Tăng đi xem xét cột mốc ranh giới thì nên cử 4 vị Tỳ-kheo thông hiểu, đi ra xác minh mốc ranh ở các hướng rồi trình lại chư tăng cũng được.
Xác minh bắt đầu từ hướng Ðông rồi sang hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc; cũng có thể mốc ranh nằm ở hướng phụ như Ðông nam, Tây nam, Tây bắc, Ðông bắc ... vị Luật sư phải xác định.
Khi xác minh mốc ranh, vị luật sư phải hỏi, và một người nào đó đứng gần phải đáp, rồi vị Luật Sư xác nhận. Cứ thế theo mỗi hướng.
- Hỏi: Puratthimāya disāya kiṃ nimittaṃ?
Ở hướng đông có gì là mốc ranh?
- Ðáp: Pāsāno bhante!
Bạch Ngài, có đá tảng!
- Xác nhận: Eso pāsāmo nimittaṃ.
Mốc ranh là tảng đá đó.
Hướng Ðông nam: puratthimāya anudisāya...
Hướng Nam: dakkhināya disāya ...
Hướng Tây nam: dakkhināya anudisāya ...
Hướng Tây: pacchimāya disāya ...
Hướng Tây bắc: pacchimāya anudisāya ...
Hướng Bắc: uttarāya disāya ...
Hướng Ðông bắc: uttarāya anudisāya ...
Xác minh xong các hướng phải xác minh lại một lần nữa ở hướng khởi điểm:
- Hỏi: Puratthimāya disāya kiṃ nimit-taṃ.
- Ðáp: Pāsāno bhante!
- Xác nhận: Eso pāsāno nimittaṃ.
Cách thức tuyên ngôn kết giới.
Sau khi đã xác minh mốc ranh chung quanh địa bàn rồi, chư tăng tập trung một nơi, vị Luật sư hãy trình bày cho Tăng biết các mốc ranh theo phương hướng; Nếu tất cả Tỳ-kheo nơi ấy đã cùng đi xác minh mốc ranh rồi thì khỏi phải trình nữa. Tiếp theo đó hãy tuyên ngôn trình tăng ấn định cương giới Sīmā.
Tuyên ngôn Samānasaṃvāsasīmā:
Suṇātu me bhante saṅgho yāvatā samantā nimittā kittitā. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho etehi nimittehi sīmaṃ sammanneyya samānasaṃ-vāsaṃ ekuposathaṃ. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yāvatā samantā ni-mittā kittitā. Saṅgho etehi nimittehi sīmaṃ sam-mannati samānasaṃvāsaṃ ekuposathaṃ. Yass' āyas-mato khamati etehi nimittehi sīmāya sammati samāṇasaṃvāsāya ekuposathāya so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Sammatā sīmā saṅghena etehi nimittehi samānasaṃvāsā ekuposathā. Kha-mati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhā-rayāmi.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, các mốc ranh đã xác định giới hạn chung quanh. Nếu đã hợp thời với tăng, Tăng nên ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát, theo các mốc ranh đó. Ðây là lời bố cáo .
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, các mốc ranh đã xác định giới hạn chung quanh. Tăng ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát, theo các mốc ranh đó. Sự ấn định cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát vị nào chấp nhận thì im lặng, vị nào không chấp nhận phải nói ra. Cương giới chỗ cộng trú đồng bố-tát đã được tăng ấn định theo các mốc ranh đó, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn Ticīvaravippavāsasīmā:
Ticīvarāvippavāsasīmā là địa phận mà tăng ấn định theo vùng samānasaṃvāsasīmā, có tác dụng để cho phép khi cư ngụ trong địa phận ấy được phép để rời tam y cách đêm mà không phạm tội ưng xả đối trị. Loại sīmā này được kết giới phải có đủ hai điều kiện: nơi mà cách biệt xóm làng, và là nơi đã kết Samānasaṃvāsasīmā rộng bao trùm các liêu cốc trú xứ. Do đó loại Ticīvāravippavāsasīmā không nhất thiết nơi nào cũng làm được. Nếu có làm, đọc tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho taṃ sīmaṃ ticīvarena avippavāsaṃ sammanneyya ṭhapetvā gāmañca gāmū-pacārañca. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Saṅgho taṃ sīmaṃ ticīvarena avippavāsaṃ sammannati ṭhapetvā gāmañca gāmūpacārañca. Yass' āyasmato khamati etissā sīmāya ticīvarena avippavāsāya sammati ṭhapetvā gāmañca gāmūpacārañca so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Sammatā sā sīmā saṅghena ticīvarena avippavāsā ṭhapetvā gāmañca gāmūpacārañca. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā nào Tăng đã ấn định là chỗ cộng trú đồng bố-tát. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên ấn định Sīmā ấy là nơi lìa xa tam y, ngoại trừ làng và cận làng. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā nào Tăng đã ấn định là chỗ cộng trú đồng bố-tát, bây giờ Tăng ấn định Sīmā ấy thành nơi được xa lìa tam y ngoại trừ làng và cận làng. Sự ấn định Sīmā ấy thành nơi được xa lìa tam y ngoại trừ làng và cận làng, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận phải nói ra. Sīmā ấy đã được tăng ấn định thành nơi được xa lìa tam y trừ làng và cận làng, tăng chúng đã chấp nhận nên mới im lặng, tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn Khaṇḍasīmā:
Khaṇdasīmā là khu vực nhỏ mà tăng ấn định trên vùng samānasaṃvāsasīmā, vì vùng Sīmā nầy quá rộng không tiện để họp tăng sự nên phải ấn định một khu vực nhất là nơi chánh điện, làm tụ điểm. khaṇḍasīmā cũng còn gọi là uposathāgāra-sammatisīmā. Tuyên ngôn để kết giới khaṇḍasīmā như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ [11] vihāraṃ uposa-thāgāraṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho itthan-nāmaṃ vihāraṃ uposathāgāraṃ sammannati. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa vihārassa uposa-thāgārassa sammati so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya sammato saṅghena itthannāmo vihāro uposathāgāraṃ. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức tăng, xin nghe tôi, nếu đã hợp thời với tăng, tăng nên ấn định chánh điện "tên vậy" là bố-tát đường. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi tăng chúng ấn định chánh điện "tên vậy" là bố-tát đường. Sự ấn định chánh điện "tên vậy" là bố-tát đường nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì hãy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì hãy nói ra. Chánh điện "tên này" đã được tăng ấn định là bố-tát đường, tăng chúng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Cách thức hủy bỏ cương giới Sīmā.
Nơi nào là phạm vi cương giới Sīmā, nếu tăng không cần sử dụng nữa, hoặc để dời đi nơi khác, hoặc để làm Sīmā mới hẹp hơn hay rộng hơn, chư tăng phải hủy bỏ hiệu lực Sīmā cũ đó.
Nếu không hủy bỏ Sīmā cũ mà làm Sīmā mới đè lên thì Sīmā mới không thành tựu. Ngày nay khi làm Sīmā ở các chùa đều phải tụng xả Sīmā cũ trước vì lý do ngừa sự bất thành Sīmā do không biết đã có Sīmā từ xưa rồi làm đè lên nền cũ.
Tụng tuyên ngôn hủy bỏ Sīmā phải thứ lớp, tức là xả Ticīvaravippavāsasīmā trước, tụng xả Sa-mānasaṃvāsasīmā sau, vì khi kết giới sīmā làm Samānasaṃvāsasīmā trước mới làm Ticīvarāvippa-vāsasīmā.
Tuyên ngôn hủy bỏ Ticīvarāvippavāsasīma:
"Suṇātu me bhante saṅgho yo so saṅghena ticīvarena avippavāso sammato. Yadi saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho taṃ ticīvarena avippavāsaṃ samū-haneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yo so saṅghena ticīvarena avippavāso sammato. Saṅgho taṃ ticīva-rena avippavāsaṃ samūhanati. Yass' āyasmato kha-mati etassa ticīvarena avippavāsassa samugghāto so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Samūhato so saṅghena ticīvarena avippavāso. Khamati saṅ-ghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, cương giới xa lìa tam y mà Tăng đã ấn định, nếu đã hợp thời với tăng, tăng phải hủy bỏ cương giới xa lìa tam y ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, cương giới xa lìa tam y mà Tăng đã ấn định, tăng hủy bỏ cương giới xa lìa tam y ấy. Sự hủy bỏ cương giới xa lìa tam y đó, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng như vị nào không chấp nhận phải nói ra. Cương giới xa lìa tam y ấy đã được tăng hủy bỏ, tăng chúng chấp nhận nên mới im lặng. tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tuyên ngôn hủy bỏ Samānasaṃvāsasīmā:
Suṇātu me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho taṃ sīmaṃ samūha-neyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho yā sā saṅghena sīmā sammatā samānasaṃvāsā ekuposathā. Saṅgho taṃ sīmaṃ samūhanati. Yass'āyasmato khamati etissā sīmāya samānasaṃvāsāya ekuposathāya sa-mugghāto so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhā-seyya. Samūhatā sā sīmā saṅghena samānasaṃvāsā ekuposathā. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Eva-metaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā cộng trú đồng bố-tát mà tăng đã ấn định, nếu đã hợp thời với tăng, tăng nên hủy bỏ Sīmā ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Sīmā cộng trú đồng bố-tát mà tăng đã ấn định, tăng hủy bỏ Sīmā ấy. Sự hủy bỏ Sīmā cộng trú đồng bố-tát, vị nào chấp nhận thì im lặng, vị nào không chấp nhận phải nói ra. Sīmā cộng trú đồng bố-tát ấy đã được tăng hủy bỏ, tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
DỨT KẾT GIỚI SĪMĀ
-ooOoo-
[1] Trong ngày tự tứ, nếu ở chùa có vị Tỳ-kheo hữu sự bệnh duyên không vào tăng hội được thì phải gởi lời chanda và lời pavāraṇā của mình, nhờ vị khác trình lại Tăng. Nếu có thì vị lảnh lời ấy phải trình tăng trước khi làm lễ; nếu không thì nói không có.
[2] Phải nói thực tế, hiện có bao nhiêu vị thì nói bấy nhiêu.
[3] Ngày tự tứ thường là ngày rằm tháng 9 âl, ngày mãn hạ, nhưng tăng có thể dời lại trễ hơn cuối tháng 9 hoặc rằm tháng 10; nếu cuối tháng 9 mà thiếu ngày thì nói catuddasi.
[4] Thay đổi tùy theo điều trở ngại (antarāya) trong 10 điều. Xem trong lễ bố-tát, tụng giới tóm tắt.
[5] Khi vị cao hạ nhất trong chúng, vị ấy phải nói āvuso thay vì bhante.
[6] Nếu là y vai trái thì là uttarasaṅgaṃ, nếu là y nội thì là antaravāsakaṃ.
[7] Với y vai trái thì nói iminā uttarasaṅgena ...; với y nội thì nói iminā antaravāsakena ...
[8] Vị thọ Kaṭhina lớn hạ nhất trong chùa thì nói āvuso.
[9] Kêu gọi 1 vị nhỏ hạ, tùy hỷ với mình, thì nói anumodāhi .
[10] Một mình nói tùy hỷ, thì nói là anumodāmi.
[11] Phải nêu tên chùa đó bằng tiếng Pāli.
-ooOoo-
PHÉP TU SA-DI
(PABBAJITAVIDHĪ)
Sự truyền giới xuất gia cho một thiện nam tử để trở thành một vị Sa-di (sāmaṇera), gọi là phép tu Sa-di.
Về nghi thức cho tu Sa-di không cần đến tăng sự tuyên ngôn (ñatti). Một vị Tỳ-kheo trưởng lão làm Thầy Tế Ðộ của Thiện nam tử ấy trước sự chứng minh của vài vị Tỳ-kheo hay Tăng chúng cũng tốt.
Trước tiên, giới tử phải tìm đủ y và bát, cạo bỏ râu tóc, cầm y bát đến trước mặt vị thầy tế độ, sau khi đảnh lễ Ngài ba lạy, xong đứng lên chắp tay nghiêm trang, tác bạch như sau:
"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā pabbajjaṃ detha me bhante".
Bạch ngài, con thành kính đảnh lễ Ngài. Bạch ngài, xin hãy xá tội lỗi cho con: phước báu con đã làm xin Ngài tùy hỷ, phước báu Ngài đã tạo hãy cho đến con, lành thay! con xin tùy hỷ. Bạch ngài, kính xin Ngài hãy vì lòng bi mẫn mà cho con xuất gia.
Rồi ngồi xuống theo thế ngồi chòm hổm, chắp tay lên nói tiếp:
"Ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; tatiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi".
Bạch ngài, con cầu xin được xuất gia; lần thứ nhì, con cầu xin được xuất gia; lần thứ ba, con cầu xin được xuất gia.
Kế đến giới tử cầm lấy bộ y ca-sa dâng đến tay Thầy Tế Ðộ và tác bạch như sau:
"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhan-te anukampaṃ upādāya" (nói ba lần).
Vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà thu nhận y cà sa nầy và cho con xuất gia.
Giới tử lại đọc lời nầy để xin y ca sa:
"Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya" (nói ba lần).
Vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch ngài, xin ngài vì lòng bi mẫn mà cho lại con y cà sa đó và cho con xuất gia.
Khi giới tử dứt lời, Thầy Hòa Thượng hãy cho lại y ca sa cho giới tử và dạy sơ lược về cách quán tưởng khi mặc y phục, đồng thời dạy về đề mục niệm thân thể trược, và giới tử phải nói theo từng đề mục như sau:
"Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā".
Tóc, lông, móng, răng, da; da, răng, móng, lông tóc.
Xong rồi giới tử lui ra đến chỗ khuất mà thay đổi tướng mạo mặc y ca sa vào nghiêm trang đúng luật, mới trở lại trước mặc Thầy Hòa thượng đảnh lễ ngài ba lạy, và đứng lên chắp tay tác bạch xin thọ qui giới, như sau:
"Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāṣa kāruññaṃ katvā tisaraṇena saha sīlāni detha me bhante."
Nghĩa như trước, đoạn cuối nghĩa là: Bạch ngài, xin hãy bi mẫn truyền qui giới cho con.
Ðoạn ngồi chồm hổm chắp tay đọc tiếp:
"Ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi".
Bạch Ngài, con cầu xin thọ qui giới, lần thứ nhì ... lần thứ ba ...).
Thầy Hòa thượng phán:
"Yam-ahaṃ vadāmi taṃ vadehi"
Ta nói lời nào ngươi hãy nói theo lời ấy.
Giới tử lãnh giáo:
"Āma bhante" xin vâng, bạch Ngài.
Thầy Hòa Thượng niệm Phật và giới tử cũng làm theo:
Namo tassa bhagavato arahato sammā sambuddhassa.
Kính lễ Ðức Thế Tôn, Ưng cúng, Chánh Biến Tri (ba lần).
Tiếp đến, Thầy Hòa thượng truyền dạy giới tử thọ tam qui, đọc hai giọng Nam và Bắc phạn:
- Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật).
- Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp).
- Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng).
- Dutiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ nhì).
- Dutiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ nhì).
- Dutiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y tăng, lần thứ nhì).
- Tatiyampi buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ ba).
- Tatiyampi dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ ba).
- Tatiyampi saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ ba).
Phải đọc lại tam qui một lần nữa bằng giọng Bắc. Phân biệt giữa giọng Nam và giọng Bắc. Giọng Nam phát âm mũi (nāsikaja) như "Buddhaṃ (ṃ) saraṇaṃ (ṃ) gacchāmi" ...; còn giọng Bắc là phát âm môi (oṭṭhaja) hợp với âm mũi (nāsikaja) như "buddham (m) saraṇam (m) gacchāmi" ... vì rằng phẩm mạo Sa-di được thành tựu hay không do sau lời tuyên thệ tam qui (tisaraṇagamana), nên phải phát âm cho đúng chuẩn tiếng phạn.
Sau phần giới tử đã thọ tam qui, Thầy Hòa Thượng nhắc nhở:
"Tisaranaggahanaṃ paripuṇṇaṃ" (phép thọ trì tam qui đã tròn đủ).
Sa-di lãnh giáo: "Āma bhante".
Thầy Hòa thượng tiếp tục truyền thọ thập giới cho sa-di:
1. Pāṇāṭipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sát sanh).
2. Adiṇṇādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng trộm cắp).
3. Abrahmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ sa-mādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng hành dâm).
4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādi-yāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng nói dối).
5. Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng uống rượu dể duôi).
6. Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samā-diyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng ăn phi thời).
7. Naccagītavāditavisūkadassanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sự ca nhạc khiêu vũ).
8. Mālāgandhavilepanadhāranamaṇḍanavibhūsaṇaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng sự trang điểm đeo tràng hoa xức hương liệu).
9. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpa-daṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng chỗ nằm ngồi cao rộng).
10. Jātarūparajatappaṭiggahanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (tôi thọ trì điều học kiêng thọ nhận vàng bạc châu báu).
Kết luận, đọc ba lần như sau:
"Imāni dasa sikkhāpadāni samādiyāmi" (Tôi xin thọ trì cả mười điều nầy).
Sa-di đã được truyền thọ mười giới như vậy rồi, đảnh lễ Thầy Hòa thượng.
*
Tiếp theo đó là làm nghi thức bái sư và xin y chỉ (nissaya).
Sa-di đứng lên trước mặt Thầy Hòa thượng, chắp tay tác bạch như sau:
"Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā nissayaṃ detha me bhante."
Bạch ngài, con xin đảnh lễ ngài v.v...bạch Ngài, xin ngài từ bi cho con y chỉ.
Phục xuống ngồi chồm hổm chắp tay, đọc tiếp:
"Ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi".
"Upajjhāyo me bhante hoti".
Bạch ngài, con cầu xin pháp y chỉ, lần thứ nhì, lần thứ ba ... bạch ngài, xin hãy là Thầy tế độ của con.
Vị Hòa thượng chấp nhận bằng lời:
" Sādhu!" - Tốt lắm!
Hoặc: lāhu, paṭirūpaṃ, opāyikaṃ, pāsādikena, sampādehi ... một tiếng nào cũng được.
Sa-di cúi đầu bái nhận bằng lời:
"Ukāsa sampaṭicchāmi. Sampaṭicchāmi. Sam-paṭicchāmi".
Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội, Con xin lãnh hội.
Vẫn tiếp tục nói:
"Ajjatagge dāni thero mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro" (ba lần).
Kể từ hôm nay trưởng lão là trọng trách của con, phần con cũng là trọng trách của trưởng lão.
Xong Sa-di đảnh lễ thầy ba lạy và ngồi xuống nơi phải lẽ để nghe thầy dạy dỗ ... từ đây vị Sa-di nầy phải làm tròn các bổn phận của vị đệ tử đối với Thầy Tế độ, phải luôn luôn tinh tấn học tập và trau giồi phẩm hạnh Sa-di trong thời gian chưa được tu lên bậc trên.
DỨT PHÉP TU SA DI
-ooOoo-
PHÉP TRUYỀN CỤ TÚC GIỚI
(UPASAMPADĀ)
Lễ truyền cụ túc giới là sự tế độ cho một thiện nam tử hay vị sa-di được đắc thành tăng tướng Tỳ-kheo.
Phép truyền cụ túc giới nhất định phải theo qui cách luật chế định mà Ðức Thế Tôn đã ban hành từ xưa. Tăng sự này phải được thực hiện trải qua nhiều giai đoạn tuyên ngôn; tăng hội chứng minh phải có túc số tối thiểu là mười vị Tỳ-kheo, ở tại Ấn Quốc độ bắt buộc phải có tăng hội từ hai mươi vị mới được phép truyền cụ túc giới; tăng sự phải được tiến hành trong sīmā, và giới tử (người thọ cụ túc) phải là người nam, người công dân hợp pháp, phải sắm đủ y bát, được cha mẹ hoặc người bảo hộ cho phép, tuổi phải đủ trên hai mươi.
Trong tăng sự sẽ có một vị trưởng lão đức hạnh đủ hạ lạp để làm thầy tế độ (upajjhāyo) của giới tử, phải có một hoặc hai vị Tỳ-kheo thông hiểu luật nghi và tiếng pàli để hướng dẫn giới tử và bạch trình tuyên ngôn đến tăng, vị này gọi là thầy yết-ma (Kammavācācariya) .
Cách thức tăng sự.
Trước tiên thầy yết-ma đặt tên tạm để ám chỉ thầy tế độ và giới tử như sau; khi thầy yết-ma hỏi hoặc nói điều gì, giới tử phải trả lời cho hợp lý:
Āc. Tvaṃ nāgo nāma.
Ngươi tên là Nāga.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Tuyhaṃ upajjhāyo āyasmā tissatthero nāma.
Thầy tế độ của ngươi là ngài trưởng lão Tissa.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Tiếp đến thầy yết-ma kiểm tra đầy đủ tam y và bình bát của giới tử:
Āc. Paṭhamaṃ upajjhaṃ gāhāpetabbo upaj-jhaṃ gāhāpetvā pattacīvaraṃ ācikkhitabbaṃ. Ayan-te patto.
Trước tiên phải cho nhận thầy tế độ, sau khi bái sư phải trình bày y bát. Ðây là bát của ngươi!
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ saṅghāṭi
Ðây là y Tăng-già-lê.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ uttarāsaṅgo
Ðây là y uất đà la tăng.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Ayaṃ antaravāsako.
Ðây là y an-đà-hội.
Nāg. Āma bhante!
Thưa vâng, bạch Ngài.
Āc. Gaccha amumhi okāse tiṭṭhāhi.
Hãy đi ra đứng chỗ kia.
Thầy yết-ma bảo giới tử lui ra đứng chỗ phía ngoài tăng hội rồi trở vào giữa tăng tuyên ngôn trình tăng xin được chỉ dạy giới tử:
"Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ ahaṃ nāgaṃ anusāseyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, nàga là đệ tử của Ngài Tissa, muốn thọ cụ túc giới. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được chỉ dạy Nāga.
Thầy yết-ma bước ra ngoài đến chỗ giới tử đứng mà dạy bảo các điều cần thiết như sau:
Suṇāsi nāga ayan te saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ saṅghamajjhe pucchante santaṃ atthī' ti vattabbaṃ asantaṃ natthī' ti vattabbaṃ. Mā kho viṭṭhāsi mā kho maṅku ahosi. Evantaṃ pucchissanti santi te evarūpā ābādhā:
Nầy Nāga, nay là lúc ngươi phải thành thật, trung thực, điều nào ngươi được hỏi giữa tăng, có thì phải nói là có, không có, phải nói không có. Ngươi đừng giấu giếm, đừng thẹn thùng. Ta sẽ hỏi ngươi những chứng bệnh như vầy ngươi có không?
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Bệnh cùi?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Gaṇḍo?
Bệnh ung nhọt?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Kilāso?
Bệnh da liểu?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Soso?
Bệnh lao?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Apamāro?
Bệnh phong điên?
Nāg. Natthi bhante!
Không có, thưa Ngài.
Āc. Manusso si?
Ngươi là loài người phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Puriso' si?
Ngươi là nam nhân phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Bhujisso' si?
Ngươi là người tự do phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anaṇo' si?
Ngươi là người vô nợ phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Na' si rājabhaṭo?
Ngươi không bị quân dịch phải chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?
Ngươi có được mẹ cha cho phép chăng?
Nāg. Āma bhante!
Có, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇavīsati vasso' si
Ngươi đủ 20 tuổi chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Y và bát của ngươi có đủ chăng?
Nāg. Āma bhante!
Vâng, thưa ngài.
Āc. Kinnāmo' si?
Ngươi tên là gì?
Nāg. Ahaṃ bhante nāgo nāma.
Thưa ngài, con tên là Nāga.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Thầy tế độ của ngươi là ai?
Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā Tissatthe-ro nāma.
Bạch Ngài, Thầy tế độ của con là Ngài trưởng lão Tissa.
Chỉ dạy giới tử xong rồi, Thầy yết-ma trở vào trình tăng để cho gọi giới tử, tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho nāgo āyasmato tissassa upasampadāpekkho anusiṭṭho so mayā yadi saṅghassa pattakallaṃ nāgo āgaccheyya āgacchāhī' ti vattabbo. Āgacchāhi!
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga đệ tử của Ngài Tissa, là người muốn thọ cụ túc giới, người ấy đã được tôi chỉ dạy xong. Nếu đã hợp thời với Tăng, phải cho Nāga đi vào. Nên nói " Người đi vào". Hãy đi vào!
*
Phần giới tử khi được gọi nên bước vào giữa Tăng chúng, đảnh lễ Tăng và tác bạch xin thọ cụ túc giới, như sau:
Saṅghaṃ bhante upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Dutiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Tatiyampi bhante saṅghaṃ upasampadaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ bhante saṅgho anukampaṃ upādāya.
Bạch đại đức Tăng, con cầu xin thọ giới cụ túc nơi Tăng. Mong đại đức Tăng vì lòng bi mẫn mà tế độ con.
Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
Sau khi giới tử đã tác bạch xin thọ cụ túc giới nơi tăng, vị yết-ma bạch trình Tăng cho phép sát hạch giới tử những điều nguyên tắc, tuyên ngôn trình Tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ Nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ nāgaṃ antarāyike dhamme puccheyyaṃ.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, đây là Nàga, người muốn thọ cụ túc giới, đệ tử của Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, tôi xin được hỏi Nàga về các điều chướng ngại.
Rồi xoay qua giới tử, thầy yết-ma bắt đầu hạch hỏi:
Suṇāsi nāga ayante saccakālo bhūtakālo yaṃ jātaṃ taṃ pucchāmi santaṃ atthī' ti vattabbaṃ asantaṃ natthī' ti vattabbaṃ. Santi te evarūpā ābādhā.
Nầy Nāga, hãy nghe đây, nay là lúc ngươi phải thành thật trung thực; điều nào ta hỏi có thì nên nói là có, không có thì nói là không có. Những chứng bệnh như vầy người có không.
Āc. Kuṭṭhaṃ?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Gaṇḍo?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Kilāso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Soso?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Apamāro?
Nāg. Natthi bhante!
Āc. Manusso' si
Nāg. Āma bhante!
Āc. Puriso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Bhujisso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anaṇo' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Na' si rājabhaṭo?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Anuññāto' si mātāpitūhi?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇavīsativasso' si?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Paripuṇṇante pattacīvaraṃ?
Nāg. Āma bhante!
Āc. Kinnāmo' si?
Nāg. Ahaṃ bhante Nāgo nāma.
Āc. Ko nāmo te upajjhāyo?
Nāg. Upajjhāyo me bhante āyasmā tissat-thero nāma.
(Nghĩa: Lời vấn đáp, toàn bộ đều như trước).
*
Hoàn tất nghi thức hướng dẫn giới tử, thẩm vấn luật lệ xong, vị yết-ma chính thức tác pháp yết-ma trình tăng truyền giới cụ túc, bằng tứ bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakammavācā), như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nā-go saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tissena upajjhāyena. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho nāgaṃ upasampādeyya āyasmatā tissena upajjhā-yena. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ nāgo āyas-mato tissassa upasampadāpekkho parisuddho anta-rāyikehi dhammehi paripuṇṇassa pattacīvaraṃ. Nāgo saṅghaṃ upasampadaṃ yācati āyasmatā tis-sena upajjhāyena. Saṅgho nāgaṃ upasampādeti āyasmatā tissena upajjhāyena. Yass'āyasmato kha-mati nāgassa upasampadā āyasmatā tissena upaj-jhāyena so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Upasampanno saṅghena nāgo āyasmatā tissena upajjhāyena. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng nên truyền giới cụ túc cho Nāga có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi, Nāga nầy là người muốn thọ giới cụ túc, đệ tử của Tôn giả Tissa, đã thanh tịnh các pháp chướng ngại, và đầy đủ y bát. Nāga cầu xin thọ giới cụ túc nơi tăng, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Tăng truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa. Sự truyền cụ túc cho Nāga, có thầy tế độ là Tôn giả Tissa nếu vị nào chấp nhận thì im lặng, như vĩ nào không chấp nhận phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ hai.
Bạch đại đức tăng, xin hãy nghe tôi .. nt ... phải nói ra. Tôi tuyên bố ý nghĩa đó lần thứ ba.
Bạch đại đức Tăng, xin hãy nghe tôi ... nt ... phải nói ra. Nāga đã được Tăng truyền giới cụ túc, có Tôn giả Tissa là thầy tế độ. Tăng chấp nhận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi dứt tứ bạch tuyên ngôn ngay lúc nào thì Thiện nam tử ấy thành tựu phẩm mạo Tỳ-kheo (bhikkhu) ngay khi ấy.
*
Phận sự của thầy tế độ tiếp theo đó phải làm đối với tân Tỳ-kheo đệ tử của mình, là phải đo bóng thời gian, tính ra ngày, tháng, năm tu của đệ tử, và đếm số tăng hội chứng minh truyền cụ túc giới hôm đó, sau nữa là chỉ dạy tân Tỳ-kheo về những điều phạm hạnh cơ bản, gồm có bốn y pháp (nissaya: pháp nương trong đời sống) và bốn bất tác pháp (akaranīya: điều không nên làm).
Việc chỉ giáo (anusāsana) nầy là phận sự của thầy tế độ (upajjhāyo), nhưng nếu Ngài già yếu không đảm trách nổi, thì giao phó việc ấy cho vị yết-ma giáo thọ đảm nhận cũng được.
PĀLI LỜI CHỈ GIÁO (ANUSĀSANA)
Tāvadeva chāyā metabbā utuppamānaṃ ācik-khitabbaṃ divasabhāgo ācikkhitabbo saṅgīti ācikkhi-tabbā cattāro nissayā ācikkhitabbā cattāri ca akara-ṇīyāni ācikkhitabbāni.
Phải đo bóng thời gian, kể mùa tiết, kể ngày giờ, đếm số tăng hội, trình bày bốn y chỉ, và chỉ dạy bốn bất tác.
Dạy bốn y chỉ (nissaya):
1."Piṇḍiyalopabhojanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho saṅghabhattaṃ uddesabhattaṃ nimantanaṃ saḷāka-bhattaṃ pakkhikaṃ uposathikaṃ pātipadikaṃ" "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương đồ ăn khất thực. Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là Tăng thí thức, chỉ định thực, biệt thỉnh thực, trù phù thực, bán nguyệt kỳ thực, trai kỳ thực, sơ nhựt thực".
Tân Tỳ-kheo nói: "Thưa vâng".
2." Paṃsukūlacīvaraṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho kho-maṃ kappāsikaṃ koseyyaṃkambakaṃ sānaṃ bhaṅ-gaṃ" "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương y phấn tảo. Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng hành theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là y vải bố, y vải bông, y vải tơ tằm, y vải len, y vải lụa, y vải hổn hợp chất".
Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
3. Rukkhamūlasenāsanaṃ nissāya pabbajjā. Tattha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho vihāro aḍḍhayogo pāsādo hammiyaṃ guhā - "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương sàng tọa gốc cây. Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là tịnh xá, mái che, lâu đài, dinh thự, thạch động".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
4. "Pūtimuttabhesajjaṃ nissāya pabbajjā. Tat-tha te yāvajīvaṃ ussāho karaṇīyo. Atirekalābho sap-pi navanītaṃ telaṃ madhu phāṇitaṃ" - "Āma bhante".
"Các bậc xuất gia sống nương dược phẩm là nước tiểu thú. Ðiều đó ngươi phải trọn đời siêng năng làm theo. Có lợi lộc ngoại lệ cũng được, như là bơ, sữa, dầu mè, mật ong, đường mía."
Tân tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
Dạy bốn pháp bất tác (akaraṇīya):
1. "Upasampannena bhikkhunā methuno dhammo na paṭisevitabbo antamaso tiracchānaga-tāyapi. Yo bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭisevati assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma pu-riso sīsacchinno abhabbo tena sarīrabandhanena jīvi-tuṃ evameva bhikkhu methunaṃ dhammaṃ paṭi-sevitvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāva-jīvaṃ akaraṇīyaṃ". "Āma bhante! "
"Một Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên hành pháp dâm dục, cho dù với con thú cái. Vị Tỳ-kheo nào hành điều dâm dục vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như một người bị chém đứt đầu, nó không thể sống với thân không đầu ấy; cũng như thế, vị Tỳ-kheo khi đã hành pháp dâm dục sẽ thành phi sa môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."
Tân Tỳ-kheo nói: "Thưa vâng."
2. "Upasampannena bhikkhunā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ na ādātabbaṃ antamaso tiṇasa-lākaṃ upādāya. Yo bhikkhu pādaṃ vā pādārahaṃ vā atirekapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyati assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma paṇ-ḍupalāso bandhanā pamutto abhabbo haritattāya evameva bhikkhu pādaṃ vā pādārahaṃ vā atire-kapādaṃ vā adinnaṃ theyyasaṅkhātaṃ ādiyitvā as-samaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ akara-ṇīyaṃ" - "Āma bhante! ".
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên lấy vật chưa được cho với ý trộm cắp, cho dù là một cọng cỏ. Vị Tỳ-kheo nào lấy trộm vật chưa được cho trị giá 1 pāda [1] hoặc tương đương hoặc cao hơn, vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như lá vàng lìa cành không còn xanh tươi nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo khi đã lấy trộm vật chưa cho trị giá 1 pāda hoặc tương đương hoặc cao hơn, sẽ thành phi sa-môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
3. "Upasampannena bhikkhunā sañcicca pāṇo jīvitā na voropetabbo antamaso kunthakipillikaṃ upādāya. Yo bhikkhu sañcicca manussaviggahaṃ jīvi-tā voropeti antamaso gabbhapātanaṃ upādāya assa-maṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma puthusilā dvidhā bhinnā appaṭisandhikā hoti evameva bhikkhu sañciccamanussaviggahaṃ jīvitā voropetvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ akaraṇīyaṃ" -"Āma bhante! "
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên cố ý đoạt mạng sống chúng sanh, thậm chí là con mối con kiến. Vị Tỳ-kheo nào cố ý giết người cho dù chỉ trục phá thai nhi, vị ấy là phi sa môn phi Thích tử. Ví như tảng đá bị bể làm đôi không còn dính lại nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo đã cố ý giết người sẽ thành phi sa-môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm."
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng".
4. "Upasampannena bhikkhunā uttari-manus-sadhammo na ullapitabbo antamaso suññagāre abhi-ramāmī' ti. Yo bhikkhu pāpiccho icchāpakato asan-taṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapati jhā-naṃ vā vimokkhaṃ vā samādhiṃ vā samāpattiṃ vā maggaṃ vā phalaṃ vā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Seyyathāpi nāma tālo matthakacchinno abhabbo pu-na viruḷhiyā evameva bhikkhu pāpiccho icchāpakato asantaṃ abhūtaṃ uttarimanussadhammaṃ ullapitvā assamaṇo hoti asakyaputtiyo. Tante yāvajīvaṃ aka-raṇīyaṃ" - "Āma bhante! "
"Một vị Tỳ-kheo đã thọ cụ túc giới, không nên kheo khoang pháp thượng nhân, thậm chí nói rằng: tôi thỏa thích ngôi nhà trống. Vị Tỳ-kheo nào ác dục tham vọng khoa trương pháp thượng nhân không có không thật chứng về thiền, hoặc giải thoát, hoặc định, hoặc nhập định, hoặc đạo, hay quả, vị ấy là phi sa-môn phi Thích tử. Ví như cây thốt nốt bị đứt đọt không thể phát triển nữa; cũng như thế, vị Tỳ-kheo ác dục tham vọng đã khoa trương pháp thượng nhân không có không thật chứng sẽ thành phi sa môn phi Thích tử. Ngươi trọn đời điều ấy không nên làm".
Tân Tỳ-kheo nói "Thưa vâng" .
Ðến đây đã trình bày tóm tắt luật nghi truyền giới cụ túc.
-ooOoo-
[1] Ðơn vị tiền tệ ngày xưa của xứ Ấn. 1 pāda bằng 5 māsaka, khó xác định là trị giá bao nhiêu tiền Việt Nam, chỉ biết là vật ấy giá trị có thể bị đưa tòa hình xét xử và bị tuyên án với tội danh trộm cắp tài sản, bị tước nhân phẩm.
-ooOoo-
TĂNG SỰ GIÁN NGHỊ
(SAMANUBHĀSANĀ)
Sự gián nghị - Samanubhāsanā, tức là sự can gián, ngăn cản, khuyên răn một vị Tỳ-kheo phạm lỗi để cho chừa bỏ lỗi lầm ấy.
Khi một vị Tỳ-kheo hành động sai quấy, (giới tăng tàng bốn điều và giới ưng đối trị một điều), cần được chư Tỳ-kheo nhắc nhở cho thấy lỗi lầm và cải thiện, nếu được nhắc nhở nhiều lần vẫn không cải thiện thì Tăng phải họp lại làm tăng sự can gián bằng cách tứ bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakam-mavācā).
Nếu sau khi Tăng hành tăng sự can gián mà vị ấy từ bỏ khuyết điểm và sám hối tội thì tốt, bằng như vẫn cố chấp như cũ thì phạm tội với tội danh tùy theo luật đã chế định.
Trong giới bổn Pāṭimokkha có 5 điều cần làm tăng sự gián nghị, như sau:
1. Tỳ-kheo cố định chia rẽ tăng (saṅgha-bheda), giới tăng tàng, điều thứ 10.
2. Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng (bhe-dānuvattaka) giới tăng tàng, điều thứ 11.
3. Tỳ-kheo tính khó dạy giới (dubbacajātika) giới tăng tàng, điều thứ 12.
4. Tỳ-kheo làm xấu tục gia (kuladūsaka) giới tăng tàng, điều thứ 13.
5. Tỳ-kheo có tà kiến (ariṭṭha) giới ưng đối trị điều 68.
Cách tuyên ngôn trong tăng sự gián nghị.
1) Tuyên ngôn gián nghị với Tỳ-kheo chia rẽ Tăng như vầy:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vatthussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu samaggassa saṅghassa bhedāya parakka-mati. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāsati tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa paṭinissaggāya so tuṇh'assa yassa nakkha-mati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho . pe. so bhāseyya tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma [1] này cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ việc đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, tăng nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ việc ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy cố tình chia rẽ tăng. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, bằng vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó là vậy.
2) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo xu hướng chia rẽ tăng, như vầy:
Suṇātu me bhante saṅgho itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno saṅghabhedāya parakkamantassa anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjanti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmañca it-thannāmañca bhikkhū samanubhāseyya tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho itthannāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno saṅghabhedāya parakkamantassa anuvattakā vagga-vādakā. Te taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjanti. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū samanubhā-sati tassa vatthussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa ca Itthannāmassa ca bhik-khūnaṃ samanubhāsanā tassa vatthussa paṭinis-saggāya so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhā-seyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. So bhāseyya Samanubhaṭṭhā saṅghena itthannāmo ca it-thannāmo ca bhikkhū tassa vatthussa paṭinissaggāya khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi".
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe đảng với Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma tùng bọn phe đảng với Tỳ-kheo Itthannāma quyết chia rẽ tăng. Họ không từ bỏ chuyện ấy. Tăng can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy. Sự can gián các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma cho từ bỏ chuyện ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng bằng vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đã được tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy, tăng chấp nhận mới in lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
3) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo khó dạy, như vầy:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So taṃ vatthuṃ nappaṭi-nissajjati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu bhikkhūhi sahadhammikaṃ vuccamāno attā-naṃ avacanīyaṃ karoti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinis-sajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhā-sati tassa vatthussa paṭinissaggāya. Yass' āyasman-to khamati Itthannāmassa bhikkhuno samanubhāsa-nā tassa vatthussa paṭinissaggāya so tuṇh' assa yas-sa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
*
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo theo đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo cho bỏ chuyện ấy đi. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy khi được chư Tỳ-kheo nhắc bảo theo đúng pháp lại tỏ ra mình khó dạy. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện ấy Ṣự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện ấy, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
4) Tuyên ngôn gián nghị đối với Tỳ-kheo làm xấu tục gia, như vầy:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā mohagāmitā bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅ-ghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassa vatthussa paṭinissaggāya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saṅghena pabbājanīyakammakato bhikkhū chandagāmitā dosagāmitā mohagāmitā bhayagāmitā pāpeti. So taṃ vatthuṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāsati tassa vat-thussa paṭinissaggāya. Yass'āyasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassa vat-thussa paṭinissaggāya so tuṇh'assa yassa nakkha-mati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassa vatthussa paṭinissaggāya. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi" .
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma bị chư tăng xử lý trục xuất lại bêu xấu chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện đó. Ðây là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này bị chư tăng xử lý trục xuất lại bêu xấu chư Tỳ-kheo là thiên vị thương, ghét, ngu, sợ. Vị ấy không từ bỏ chuyện đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho từ bỏ chuyện đó. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ chuyện đó nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng can gián cho từ bỏ chuyện đó. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
5) Tuyên ngôn để gián nghị đối với Tỳ-kheo tà kiến, như vầy:
"Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānā-mi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bhagavatā te paṭisevati n' ālaṃ antarāyāyā' ti. So taṃ diṭṭhiṃ nappaṭinissajjati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ samanubhāseyya tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno evarūpaṃ pāpakaṃ diṭṭhigataṃ uppan-naṃ tathā' haṃ bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmi yathā ye' me antarāyikā dhammā vuttā bha-gavatā te paṭisevato n'ālaṃ antarāyāyā'ti. So taṃ diṭṭhiṃ nappaṭinissajjati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhik-khuṃ samanubhāsati tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno samanubhāsanā tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya so tuṭh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Samanubhaṭṭho saṅghena itthannāmo bhikkhu tassā diṭṭhiyā paṭinissaggāya khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhāra-yāmi".
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có ác tà kiến sanh khởi như sau: "Theo tôi biết pháp do Ðức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà Ngài nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người hành theo đâu". vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng phải nên can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, đối với Tỳ-kheo Itthannāma có có ác tà kiến sanh khởi như sau: "theo tôi biết pháp do Ðức Thế Tôn thuyết thì những pháp mà Ngài nói là chướng ngại, thật sự không đủ để làm trở ngại cho người hành theo đâu". Vị ấy không từ bỏ tà kiến đó. Tăng can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy. Sự can gián Tỳ-kheo Itthannāma cho bỏ tà kiến ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch Ðại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được tăng can gián cho bỏ tà kiến ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
DỨT TĂNG SỰ GIÁN NGHỊ
-ooOoo-
TĂNG SỰ PHÊ CHUẨN CHỖ XÂY CẤT
(VATTHUDESANĀ)
Luật Tỳ-kheo có qui định việc vị Tỳ-kheo xây dựng am cốc (kuṭi) và đại tịnh xá (mahalla-kavihāra), phải làm ở một vị trí thuận lợi an ổn, tức là chỗ không có điều khả nghi, chỗ có lối thông chung quanh. Am cốc xây dựng còn có thêm qui định về kích cỡ nữa. Bất cứ trường hợp nào, về chỗ xây cất đều phải được chư tăng xác minh và phê chuẩn mới được phép làm. Luật tăng tàng, điều sáu và điều bảy.
Việc chư tăng xác minh và phê chuẩn vị trí xây cất, phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn (ñattidutiyakamma). Tăng sự được tiến hành hai giai đoạn, cử người xác minh (olokana), và phê chuẩn (desanā).
*
Tăng sự phê chuẩn chỗ thất liêu.
Am cốc - Kuti, là chỗ ở cá nhân của vị Tỳ-kheo, nếu tự mình quyên góp để xây dựng cho mình, không có thí chủ đứng ra chịu tổn phí cho, thì phải cất với kích cỡ qui định là ngang 5,25 mét (7 gang tay Phật) dài 9 mét (12 gang tay Phật); và chỗ nền xây cất phải xin chư Tỳ-kheo xác minh phê chuẩn.
Vị Tỳ-kheo cốc chủ ấy phải tìm đến Tăng và trước hết yêu cầu chư Tăng xác minh chỗ nền xây thất. Mặc y vai trái, đảnh lễ những vị trưởng lão, ngồi chồm hổm và tác bạch rằng:
Ahaṃ bhante saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...
Bạch đại đức tăng, tôi muốn làm ngôi am cốc cho mình không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng xem xét nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
Chư Tăng nên cử ra hai vị Tỳ-kheo hiểu luật để đi đến chỗ ấy xem xét nền cốc có hợp lý không, bằng cách tuyên ngôn đề cử như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammanneyya Itthannāmas-sa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthu-olokanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammannati Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ olo-ketuṃ. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa ca Itthannāmassa bhikkhūnaṃ sammati Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. sammatā saṅghena itthan-nāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ oloketuṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xét nền cốc. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng xem xét nền cốc. Tăng cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma được tăng cử đi xem xét nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Hai vị Tỳ-kheo được Tăng cử đi, hãy đến chỗ ấy để xem xét địa thế, thấy như thế nào thì trở lại trình Tăng rõ; khi đã xác minh thấy là chỗ xây cất được hợp lý thì Tăng phê chuẩn cho phép Tỳ-kheo cốc chủ tiến hành xây cất. Sự phê chuẩn ấy cũng phải qua tăng sự nhị bạch tuyên ngôn.
Tỳ-kheo cốc chủ ngỏ lời xin Tăng phê chuẩn rằng:
Ahaṃ bhante saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So'haṃ bhante saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tati-yampi ...pe...
Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm am thất cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Bạch Tăng, tôi xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
Tiếp đến Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ deseyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu saññācikāya kuṭiṃ kattukāmo assāmikaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ kuṭivatthudesanaṃ yācati. saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno kuṭivatthuṃ dese-ti. Yass' āyasmanto khamati Itthannāmassa bhik-khuno kuṭivatthussa desanā so tuṇh' assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Desitaṃ saṅghena itthannā-massa bhikkhuno kuṭivatthuṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi" .
Bạch đại đưc Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn chỗ nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm am cốc cho mình, không có thí chủ, do tự quyên góp. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc. Tăng phê chuẩn chỗ nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Nền cốc của Tỳ-kheo Itthannāma đã được phê chuẩn, tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tăng sự phê chuẩn chỗ làm đại tịnh xá.
Ðại tịnh xá. Mahallakavihāra, là một ngôi chùa riêng, có khuôn viên rộng lớn, được thí chủ làm cúng cho Tỳ-kheo; dù không giới hạn kích cỡ, nhưng cũng phải được Tăng xác minh phê chuẩn vị trí tọa lạc.
Trước hết, vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tìm đến Tăng để xin xem xét vị trí nền tịnh xá, lời tác bạch như sau:
Ahaṃ bhante mahallakaṃ vihāraṃ kat-tukāmo sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃbhante saṅ-ghaṃ vihāravatthu-olokanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...
Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, tôi xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt ...
Tăng cần được thông qua bằng nhị bạch tuyên ngôn để cử hai vị đi xác minh, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ Ṣo saṅghaṃ vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho it-thannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammanney-ya Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloke-tuṃ. Esā ñatti .
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthu-oloka-naṃ yācati. Saṅgho Itthannāmañca Itthannāmañca bhikkhū sammannati Itthannāmassa bhikkhuno vihā-ravatthuṃ oloketuṃ. Yass' āyasmato khamati it-thannāmassa ca Itthannāmassa ca bhikkhūnaṃ sammati Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāsey-ya. Sammatā saṅghena itthannāmo ca itthannāmo ca bhikkhū Itthannāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ oloketuṃ. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evame-taṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng xem xét nền tịnh xá. Tăng cử các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cử Tỳ-kheo Itthannāma và itthan-nāma xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo itthan-nāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Các Tỳ-kheo Itthannāma và Itthannāma đã được Tăng cử đi xem xét nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Hai vị được Tăng cử đi, hãy đến chỗ ấy xem xét nền xây dựng tịnh xá, nếu thấy thích hợp rồi thì trở lại trình Tăng rỏ; về vị Tỳ-kheo chủ nhân phải tác bạch xin Tăng phê chuẩn chỗ làm tịnh xá ấy, như sau:
Ahaṃ bhante mahallakaṃ vihāraṃ kattu-kāmo sassāmikaṃ attuddesaṃ. So' haṃ bhante saṅ-ghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe...
Bạch đại đức Tăng, tôi muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Bạch Tăng, Tôi cầu xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt...
Tiếp đến Tăng phải được thông qua bằng nhị bạch tuyên ngôn để phê chuẩn, như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ deseyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu mahallakaṃ vihāraṃ kattukāmo sassāmi-kaṃ attuddesaṃ. So saṅghaṃ vihāravatthudesanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno vihāravat-thuṃ deseti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmas-sa bhikkhuno vihāravatthudesanā so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Desitaṃ saṅghena itthan-nāmassa bhikkhuno vihāravatthuṃ. khamati saṅ-ghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Nếu đã hợp với Tăng, Tăng hãy nên phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy muốn làm ngôi đại tịnh xá cho mình, có thí chủ cúng. Vị ấy xin Tăng phê chuẩn nền tịnh xá. Tăng phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phê chuẩn nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Nền tịnh xá của Tỳ-kheo Itthannāma đã được tăng phê chuẩn. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
DỨT TĂNG SỰ PHÊ CHUẨN CHỖ XÂY CẤT.
-ooOoo-
TĂNG SỰ CHO PHÉP LÌA TAM Y
(TICĪVARĀVIPPAVĀSASAMMATI)
Trong luật Tỳ-kheo, giới Ưng xả đối trị (nissag-giyapācittiya), điều thứ hai có nói: Vị Tỳ-kheo xa lìa tam y cách đêm phạm ưng xả đối trị, ngoại trừ vị Tỳ-kheo được cho phép.
Tỳ-kheo có 3 trường hợp được phép lìa xa tam y cách đêm không phạm tội, là đang trong thời gian hưởng quyền lợi Kaṭhina, đang cư ngụ trong phạm vi ticīvarāvippavāsasīmā, có sự cho phép của Tăng vì lý do bệnh.
Trường hợp vị Tỳ-kheo bệnh muốn ra đi đến nơi khác để điều trị mà không thể mang theo tam y bên mình, thì nên xin phép Tăng cho xa lìa tam y, nhất là y Saṅghāṭi. Vậy mới không phạm tội ưng xả.
Vị Tỳ-kheo ấy phải đến tác bạch với Tăng như sau:
Ahaṃ bhante gilāno na sakkomi ticīva-raṃ ādāya pakkamituṃ. So' haṃ bhante saṅghaṃ ticīva-rena avippavāsasammatiṃ yācāmi. Dutiyampi ... pe ... tatiyampi ... pe ...
Bạch chư Tăng, tôi bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Bạch chư Tăng, tôi cầu xin Tăng cho phép lìa xa tam y.
Tăng phải chấp thuận bằng tăng sự nhị bạch tuyên ngôn, như vầy:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ ticīvarena avippavāsasammatiṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammatiṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu gilāno na sakkoti ticīvaraṃ ādāya pakka-mituṃ. So saṅghaṃ ticīvarena avippavāsasammatiṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammatiṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasam matiyā dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dinnā saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno ticīvarena avippavāsasammati. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi."
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch Ðại Ðức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy bị bệnh không thể đi mang theo tam y. Vị ấy xin Tăng cho phép lìa xa tam y. Tăng cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cho phép lìa xa tam y đối với Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Ðối với Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng đã cho phép lìa xa tam y. Tăng chấp nhận nên mới im lặng Tôi xin ghi nhận Việc đó như vậy.
Sau khi được tăng chấp thuận, Tỳ-kheo bệnh ấy có quyền xa lìa một trong tam y cách đêm không phạm tội; nhưng hiệu lực của sự cho phép, chỉ trong thời gian còn bệnh, khi hết bệnh thì hết hiệu lực của chỉ thị.
DỨT TĂNG SỰ CHO PHÉP LÌA XA TAM Y
-ooOoo-
[1] Itthannāma: "tên vậy vậy". Khi ám chỉ ai thì nói tên người ấy.
-ooOoo-
TĂNG SỰ TRỊ PHẠT TỘI TĂNG TÀNG
(VUṬṬHĀNA)
Tội Tăng tàng (saṅghādisesāpatti) luật Ðức Phật chế có 13 điều trong giới bổn (pāṭimokkha); Tỳ-kheo phạm tội phải làm tăng sự theo luật mới đúng pháp, tội này không thể sám hối cách thông thường như các tội nhẹ khác.
Tăng sự trị phạt tội tăng tàng phải qua 3 giai đoạn: phạt biệt trú (parivāsadāna) phạt tự hối (mānattadāna), phục vị (abbhāna).
Ðối với vị Tỳ-kheo phạm tội không che giấu thời gian cách đêm, Tăng chỉ xử vị ấy hành phạt tự hối (mānatta) sáu đêm rồi phục vị (abbhāna).
Ðối với vị phạm tội có che giấu thời gian qua đêm thì tăng xử phạt vị ấy sống biệt trú (parivāsa) theo thời gian tương ứng với thời gian che giấu, sau đó mới cho phạt tự hối (mānatta), rồi phục vị (abbhāna).
Về tác pháp kiết ma trong tăng sự trị phạt tội tăng tàng phải là tứ bạch tuyên ngôn (ñatticattut-thakammavācā) không thể làm cách khác.
Về túc số Tăng chứng minh tăng sự vụ việc này, có hai trường hợp, tăng sự xử phạt biệt trú (parivāsa) và phạt tự hối (mānatta) cần túc số từ 4 vị Tỳ-kheo hoặc nhiều hơn; Riêng giai đoạn phục vị (abbhāna) nhất định phải có túc số từ 20 vị trở lên (không kể Tỳ-kheo can tội).
Trong thời gian chịu phạt biệt trú (parivāsa) hay hành tự hối (mānatta), vị Tỳ-kheo can tội ấy phải tuân theo các nguyên tắc luật lệ và phải chấp nhận mất các quyền lợi và quyền hạn của một vị Tỳ-kheo bình thường. Việc này vị Luật sư nên có trách nhiệm giải thích và hướng dẫn.
XỬ LÝ TỘI PHẠM KHÔNG CHE GIẤU
Vị Tỳ-kheo nào khi đã phạm tội, biết là phạm, có lòng tàm quý với lỗi lầm bèn tìm đến một vị Tỳ-kheo khác trình bày khai thật, nội trong ngày ấy, như thế gọi là tội không có che giấu. Trường hợp này Tăng không cần cho biệt trú (parivāsa), chỉ cho hành tự hối (mānatta) sáu đêm.
Cách thức Appaṭicchannamānanatta-kamma:
Ðương sự cầu xin Tăng cho hình phạt tự hối (Mānatta) rằng:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo [1] āpajjiṃ appaṭicchannāyo. So' haṃ bhante saṅghaṃ samba-hulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante ... pe ... dutiyampi bhante saṅ-ghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante ... pe ... tatiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannā-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi".
Bạch đại đức tăng, tôi dã phạm nhiều tội, không che giấu. Bạch đại đức Tăng, tôi đây xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu.
Bạch đại đức tăng ... nt ... lần thứ nhì.
Bạch đại đức tăng ... nt ... lần thứ ba.
Vị luật sư tuyên ngôn trình Tăng cho hình phạt mànatta đến Tỳ-kheo ấy như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ, so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ ... pe .. Tati-yampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ ... pe ... so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhu-no sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaticchannānaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, không che giấu. Vị ấy xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, không che giấu. Vị ấy xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Việc cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố sự việc đó.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi ... nt ... Lần thứ ba tôi tuyên bố sự việc đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu, Tăng đã cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Dứt tuyên ngôn, vị Tỳ-kheo ấy thọ pháp giữa Tăng như vầy:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (nói ba lần).
Tôi thọ trì hành phạt tự hối, tôi thọ trì pháp hành.
Trong thời gian thọ pháp, vị Tỳ-kheo hãy trình pháp mỗi ngày với Tăng hoặc một hoặc vài vị Tỳ-kheo, trình pháp như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ appaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ' haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām' ahaṃ bhante vedi-yatī' ti maṃ saṅgho dhāretu".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, không che giấu. Tôi đây đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tôi đang thi hành hình phạt tự hối. Bạch quí ngài, tôi xin khai trình; mong Tăng hãy nhận cho tôi là người khai trình rồi".
Mặt khác, khi đang thi hành pháp mànatta như thế, nếu có vị Tỳ-kheo khách tăng đến, đương sự cũng phải khai trình với vị đó. Trường hợp biết rõ vị Tỳ-kheo khách là người không thuận với mình, không tiện để khai trình thì hãy tuyên bố xả pháp hành rồi sau đó đến khuya hoặc gần sáng sẽ thọ trì lại với một hoặc vài vị Tỳ-kheo thích hợp. Lời xả pháp hành như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi. (nói ba lần).
Tôi xả hình phạt tự hối, tôi xả pháp hành.
Sau khi đã trải qua đủ sáu đêm tự hối rồi, Tỳ-kheo ấy đáng được Tăng phục vị (abbhāna) cho trở lại phẩm cách bình thường.
Cách thức Appaṭicchanna - abbhāna-kamma:
Tỳ-kheo ấy đi đến Tăng túc số trên 20 vị và ngỏ lời xin Tăng phục vị xuất tội, như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ appaṭicchannāyo so'haṃ saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ' haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante ... pe ... So' haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhā-naṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante ... pe ... So' haṃ ciṇṇa-mānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi ".
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội không che giấu, tôi đây đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu. Bạch quí Ngài, tôi đã chịu đủ hình phạt tự hối cầu xin Tăng phục vị. Bạch quí Ngài ... nt ... lần thứ hai, cầu xin tăng phục vị. Bạch quí Ngài ... nt ... lần thứ ba, cầu xin Tăng phục vị.
Tăng phục vị cho Tỳ-kheo ấy bằng tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇa-mānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbhey-ya. Esā ñatti.
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji appaṭicchannāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ appaṭicchan-nānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ appa-ṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇa-mānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ abbheti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ... pe... tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ... pe ... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội không che giấu. Vị ấy đã xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu; Tăng đã cho hình phạt tự hối sáu đêm đến Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Vị ấy đã chịu đủ hình phạt tự hối nay cầu xin tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội không che giấu. Vị ấy đã xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội không che giấu; Tăng đã cho hình phạt tự hối sáu đêm đến Tỳ-kheo Itthannāma về những tội không che giấu. Vị đã chịu đủ hình phạt tự hối nay xin Tăng phục vị. Tăng phục vị Tỳ-kheo itthan-nāma.Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố sự việc đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... lần thứ ba, tôi tuyên bố sự việc đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... thì nên nói ra. Tỳ-kheo itthannàma đã được Tăng phục vị. Tăng chấp nhận bởi thế im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
XỬ LÝ TỘI PHẠM CHE GIẤU THỜI GIAN XÁC ÐỊNH
Tỳ-kheo phạm tội Tăng tàng rồi che giấu không khai ra, vì hổ ngươi, vì lầm tưởng, vì không có cơ hội ... đến sau mới khai trình; tội ấy cần phải xử lý theo cách phạt biệt trú (parivāsa) đủ thời gian đã che giấu, mới cho hình phạt tự hối (mānatta) sáu đêm rồi phục vị (abbhāna). Ðây là cách xuất tội trường hợp nầy.
Nếu Tỳ-kheo đã che giấu mà nhớ rõ thời gian che giấu là bao lâu thì xử cho biệt trú theo thời gian đó.
Cách thức Paṭicchannaparivāsakamma:
Ðương sự xin Tăng cho biệt trú theo thời gian xác định như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo (1). So' haṃ bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ (2) yācāmi.
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. Dutiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācāmi.
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. Tatiyampi bhante saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācāmi .
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, tôi đây xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Bạch, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, lần thứ hai tôi xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Bạch, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Bạch, lần thứ ba tôi xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày.
Kế đến, Tăng cho pháp biệt trú đến Tỳ-kheo ấy, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ eka-happaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhik-khuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchan-nānaṃ ekāhaparivāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yācati. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāha-parivāsassa dānaṃ so tuṇhassa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ... pe ... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho .. pe .. so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo itthannàma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho pháp biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng cho phép biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Việc cho pháp biệt trú một ngày đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Pháp biệt trú một ngày đã được tăng cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy thọ pháp biệt trú giữa Tăng như sau:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần)
Tôi xin thọ trì biệt trú, tôi xin thọ trì phận sự.
Sau khi đã thọ trì pháp biệt trú giữa Tăng Tỳ-kheo ấy phải trình pháp hành của mình với Tăng (trình bằng pāli hay ý nghĩa cũng được) như vầy:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So'haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivasāmi vediyām'ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Tôi đây đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho tôi biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tôi đang biệt trú; bạch đại đức tăng, tôi khai trình; xin tăng nhận biết tôi khai trình rồi.
*
Trong thời gian biệt trú, Tỳ-kheo ấy phải sống riêng biệt với Tỳ-kheo khác, không được hưởng quyền lợi và quyền hạn như vị Tỳ-kheo bình thường, không được thụ lễ của vị khác (dù đó là đệ tử của mình), không được giáo giới, truyền giới, làm y chỉ cho ai ... trong thời gian biệt trú nếu có vị Tỳ-kheo khách nào đến viếng thăm thì Tỳ-kheo ấy phải khai trình pháp hành của mình, nếu không thể khai trình với vị ấy được, vì bất đồng quan điểm ... thì phải nguyện xả pháp để sau đó nguyện thọ lại với một vị Tỳ-kheo bạn. Lời nguyện xả như sau:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần)
Tôi xả bỏ sự biệt trú, tôi xả bỏ pháp hành.
Ðó là cách thức biệt trú về tội phạm che giấu có thời gian xác định.
Chú thích:
(1) Nói rõ thời gian đã che giấu tội, thay đổi lời lẻ cho thích hợp. Nếu tội che giấu hai ngày thì nói là dvīhap-paṭicchannāyo, ba ngày là tīhappaṭicchannāyo, bốn ngày là catūhappaṭicchannāyo, năm ngày là pañcāhappaṭicchannāyo, sáu ngày là chāhappaṭicchannāyo, bảy ngày là sattaàhappa-ṭicchannāyo, tám ngày là aṭṭhāhappaṭicchannāyo, chín ngày là navaàhappaṭicchannāyo, mười ngày là dasāhappaṭicchannāyo, mười một ngày là ekadasāhappaṭicchannāyo, mười hai ngày là dvādasāhappaṭicchannāyo, mười ba ngày là terasāhappaṭic-channāyo, mười bốn ngày là catuddāsahappaṭicchannāyo, nửa tháng là pakkhappaṭicchannāyo, hơn nửa tháng là atirekapak-khappaṭicchannāyo, một tháng là māsappaṭicchannāyo, hơn một tháng là aṭirekamāsappaṭicchannāyo, một năm là saṃvac-charappaṭicchannāyo, hơn một năm là aṭirekasaṃvaccharap-paṭicchannāyo ... luật sư phải hướng dẫn sắp đặt ngôn từ.
(2) Trình thời gian che giấu bao lâu thì phải xin thời gian biệt trú bấy lâu; che giấu hai ngày thì xin biệt trú hai ngày "dvīhaparivāsaṃ", che giấu ba ngày thì xin biệt trú ba ngày "tīhaparivāsaṃ" ... v.v... che giấu hơn một năm thì xin biệt trú hơn năm "atirekasaṃvaccharaparivāsaṃ" nên lập văn tự cho khế hợp. Tuyên ngôn trình Tăng để cho Tỳ-kheo can tội biệt trú, luật sư cũng phải chú ý lập văn tự phù hợp với lời xin của Tỳ-kheo về thời gian che giấu và thời gian biệt trú.
Cách thức Paṭicchanna - mānattakamma:
Vị Tỳ-kheo thọ biệt trú về tội phạm đã che giấu, khi đã đủ thời gian Tăng tuyên phạt thì vị ấy bước qua giai đoạn chịu tự hối sáu đêm (mānatta). Vị ấy phải tìm đến Tăng và xin hình phạt tự hối, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So'haṃ saṅghaṃ sambahulā-naṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapa-rivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ bhante parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante ...pe... parivuṭṭhaparivāso dutiyampi bhante saṅghaṃ ...pe... yācāmi. Ahaṃ bhante ...pe... parivuṭṭhaparivāso tati-yampi bhante saṅghaṃ ...pe... yācāmi.
Bạch đại đức Tăng, tôi đã phạm nhiều tội che giấu một ngày; tôi đã xin Tăng cho biết trú một ngày về những tội che giấu một ngày; Tăng đã cho tôi biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Bạch, tôi đây đã mãn biệt trú nay tôi xin Tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
... Lần thứ hai, tôi xin tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
... Lần thứ ba, tôi xin tăng hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày.
Tiếp đến chư Tăng phải cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo ấy, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekā-happaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi Ṣo parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass' āyasmato khamati itthannā-massa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno samba-hulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārat-taṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo itthan-nāma về những tội che giấu một ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú một ngày về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Tăng cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày. Việc cho hình phạt tự hối sáu đêm đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Hình phạt tự hối sáu đêm Tăng đã cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma về những tội che giấu một ngày; Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy thọ trì hình phạt tự hối giữa Tăng, như sau:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (nói ba lần).
Tôi thọ trì hình phạt tự hối, tôi thọ trì phận sự.
Tỳ-kheo hành Mānatta, mỗi ngày phải trình pháp với Tăng, nếu không trình gọi là làm hỏng sự hành pháp; lời trình như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So'haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpa-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So'haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām'ahaṃ bhante vediyatī'ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu một ngày. Tôi đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày; khi mãn biệt trú tôi đã xin Tăng sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày. Tôi đang hành pháp tự hối; bạch quí ngài tôi khai trình, mong chư tăng hãy nhận biết là tôi khai trình.
Nếu đang hành Mānatta, có duyên cớ phải tạm thời ngưng sự thực hành thì nguyện xả với một vài vị chứng minh, như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần).
Tôi xả pháp hành tự hối, tôi xả phận sự.
Cách thức Paṭicchanna abbhānakamma:
Sau khi đã hành mānatta đủ sáu đêm rồi, Tăng nên phục vị cho Tỳ-kheo ấy. Cách thức như vầy, Tỳ-kheo ấy đi đến chỗ tăng hội, túc số trên 20 vị, đảnh lễ các vị cao hạ rồi ngỏ lời xin phục vị rằng:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo. So'haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adā-si. So'haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ samba-hulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārat-taṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅ-ghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante ...pe... So' haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante. pe. So' haṃ ciṇṇamānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày; tôi đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho tôi một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày; khi mãn biệt trú tôi đã xin Tăng phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày; Tăng đã cho tôi hình phạt tự hối sáu đêm về những tội che giấu một ngày. Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, tôi xin Tăng phục vị ... nt ... Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, lần thứ nhì tôi xin Tăng phục vị ... nt ... Bạch, tôi đã tròn đủ thời gian tự hối, lần thứ ba tôi xin Tăng phục vị.
Tăng phục vị cho Tỳ-kheo ấy bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhā-naṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ itthannā-maṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhap-paṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannaàmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ ekāhaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ ekāhappaṭicchannānaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhā-naṃ yācati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ ab-bheti. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa bhik-khuno abbhānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày. Vị ấy khi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đem tự hối về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã đủ thời gian tự hối nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu một ngày. Vị ấy đã xin Tăng một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma một ngày biệt trú về những tội che giấu một ngày. vị ấy khi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày, Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội che giấu một ngày. Vị ấy đã đủ thời gian tự hối, nay xin Tăng phục vị. Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị rồi, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
XỬ LÝ TỘI CHE GIẤU THỜI GIAN KHÔNG RÕ
Trường hợp Tỳ-kheo phạm tội tăng tàng cũng che giấu, nhưng đây không xác định được thời gian vì không nhớ rõ. Trường hợp này Tăng phải sử biệt trú với thời gian phỏng định trừ ra thời gian thanh tịnh của vị ấy, thí dụ như vị ấy tu được mười hạ, nhớ rằng sáu hạ đầu thanh tịnh, như vậy Tăng sẽ cho biệt trú về tội che giấu thời gian là bốn năm v.v...
Nếu đang khi biệt trú mà chợt nhớ ra thời gian chính xác đã che giấu, thì phải khai báo với Tăng để thêm hoặc bớt thời gian biệt trú.
Trường hợp xử lý tội che giấu nầy, gọi là Suddhantaparivāsa.
Cũng trải qua ba giai đoạn: biệt trú (pari-vāsa), tự hối (mānatta), phục vị (abbhāna).
Cách thức Suddhantaparivāsakamma:
Tỳ-kheo ấy đi đến Tăng, và xin biệt trú như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipari-yantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi ratti-pariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rat-tipariyante vematiko. So' haṃ bhante saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācāmi. Duti-yampi ahaṃ bhante ...pe... Tatiyampi ahaṃ bhante. pe."
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Bạch, tôi xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Lần thứ nhì ... nt ... lần thứ ba ... nt ...
Tăng phải được thông qua tuyên ngôn để cho biệt trú đến Tỳ-kheo ấy, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarā-mi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantapari-vāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yā-cati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ suddhantaparivāsaṃ deti. Yass'āyasmato kha-mati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsassa dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi .
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Việc cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh đến Tỳ-kheo itthannàma, về những tội ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Sự biệt trú trừ thời gian thanh tịnh đã được tăng cho đến Tỳ-kheo Itthannāma, về những tội ấy. Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo tuyên bố thọ trì sự biệt trú:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (đọc ba lần).
Tôi thọ trì sự biệt trú, tôi thọ trì pháp hành.
Tỳ-kheo đang khi hành biệt trú phải trình pháp với tăng hoặc nhóm hoặc một vị cũng được, lời trình như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi ratti-pariyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅ-gho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivasāmi vediyām' ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅgho dhāretu".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Tôi đang biệt trú. Bạch, tôi xin khai trình; xin Tăng nhận biết là tôi khai trình.
Tỳ-kheo đang biệt trú mà có hoàn cảnh không thể giữ pháp hành trong lúc đó, thì tạm thời xả, và đêm đó thọ trì lại. Lời xả như vầy:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (đọc ba lần).
Tôi xả bỏ sự biệt trú, tôi xả bỏ pháp hành.
Ðó là cách thức tăng sự cho biệt trú.
Cách thức Suddhantamānattakamma:
Sau khi đã hành biệt trú đủ thời gian, Tỳ-kheo ấy qua giai đoạn hai là sống tự hối sáu đêm. Tỳ-kheo ấy phải tìm đến Tăng, và ngỏ lời xin Tăng cho hành mànatta như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipa-riyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ bhante parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi. Dutiyampi ahaṃ bhante ...pe... Tatiyampi ahaṃ bhante ...pe... yācāmi"
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Bạch, tôi đã mãn biệt trú, tôi xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Lần thứ nhì ... nt .. lần thứ ba ... nt ...
Tiếp đến, Tăng cho Tỳ-kheo ấy sáu đêm tự hối, bằng cách thông qua tứ bạch tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chāratttaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mā-nattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivut-thaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi eta-matthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho. pe. so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết hạn lượng tội, không biết hạn lượng đêm, không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Sáu đêm tự hối được Tăng cho đến Tỳ-kheo Itthannāma rồi, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy thọ trì pháp mānatta rằng:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần).
Tôi xin thọ trì Itthannāma, tôi thọ trì pháp hành.
Trong thời gian hành mànatta, mỗi ngày vị Tỳ-kheo ấy phải khai trình với chư tăng không được bỏ qua, lời trình như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipari-yantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyantaṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So'haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattī-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ mānattaṃ carāmi. Vediyām' ahaṃ bhante vedi-yatī' ti maṃ saṅgho dhāretu".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, tôi không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, tôi không nhớ hạn lượng tội, không nhớ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú trừ thời gian thanh tịnh về những tội ấy. Khi đã mãn biệt trú, tôi đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tôi đang hành pháp tự hối. Bạch, tôi xin khai trình, xin Tăng nhận biết là tôi khai trình.
Nếu trong thời gian hành mānatta Tỳ-kheo có duyên cớ không thể khai trình thì phải tạm thời xả bỏ pháp hành để không làm hỏng pháp hành mànatta, đêm gần hết sẽ thọ lại với các vị trong chùa. Lời xả pháp hành như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi.
Tôi xin xả mànatta, tôi xả pháp hành.
Cách thức Suddhanta-abbhānakamma:
Khi đã đủ sáu đêm mānatta, nếu Tăng thấy rằng Tỳ-kheo ấy đã cải thiện thì nên phục vị Tỳ-kheo ấy. Ðương sự phải tìm đến Tăng có túc số trên 20 vị, đến đảnh lễ các vị cao hạ, và ngỏ lời xin Tăng phục vị như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajjiṃ āpattipariyantaṃ na jānāmi rattipariyantaṃ na jānāmi āpattipariyantaṃ na sarāmi rattipariyan-taṃ na sarāmi āpattipariyante vematiko rattipari-yante vematiko. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ sud-dhantaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārat-taṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ bhan-te ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante ...pe... So' haṃ ciṇṇamānatto dutiyampi bhante saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Ahaṃ bhante ...pe... So' haṃ ciṇṇamānatto tatiyampi bhante saṅghaṃ ab-bhānaṃ yācāmi".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ hạn lượng đêm. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho tội biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú tôi đã xin tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Bạch quí Ngài, nay tôi đã đủ thời tự hối, tôi xin tăng phục vị. Bạch quí ngài, ... nt ... lần thứ hai tôi xin Tăng phục vị. Bạch quí ngài ... nt ... lần thứ ba tôi xin Tăng phục vị.
Tiếp đến Tăng phải thông qua tứ bạch tuyên ngôn để phục vị Tỳ-kheo ấy, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādiseso āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpattipariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅ-ghaṃ abbhānaṃ yācati. yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji āpattipariyantaṃ na jānāti rattipariyantaṃ na jānāti āpattipariyantaṃ na sarati rattipariyantaṃ na sarati āpatti-pariyante vematiko rattipariyante vematiko. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ suddhantaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ suddhantaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamā-natto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho itthannā-maṃ bhikkhuṃ abbheti. Yassā'yasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ trong hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. vị ấy đã đủ thời tự hối, nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, không biết rõ hạn lượng tội, không biết rõ hạn lượng đêm, không nhớ rõ hạn lượng tội, không nhớ rõ hạn lượng đêm, có sự nghi ngờ hạn lượng tội, nghi ngờ trong hạn lượng đêm. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú trừ thời gian thanh tịnh, về những tội ấy. Khi mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối; Tăng đã cho Tỳ-kheo itthan-nāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã đủ thời tự hối nay xin tăng phục vị; Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị; Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
XỬ LÝ TỘI LIÊN TỤC SAI PHẠM
Có ba trường hợp xử trị tổng kết tội danh (samodhāna). Trường hợp một là agghasamodhāna, nghĩa là xử theo cách gom các tội đã phạm che giấu rồi phạt biệt trú một lần lấy thời gian của tội nào che giấu lâu nhất mà làm móc thời gian biệt trú.
Thí dụ như vị ấy liên tục vị phạm năm tội, có tội đã che giấu một ngày, có tội đã che giấu mười ngày, có tội đã che giấu một tháng, có tội đã che giấu một năm, có tội đã che giấu hai năm; thì xử phạt biệt trú là hai năm vì tội che giấu hai năm là nặng nhất trong các tội.
Cách thức Agghasamodhānaparivāsa:
Tỳ-kheo phạm tội hãy tìm đến Tăng và xin hành biệt trú như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulānaṃ āpattiyo āpajjiṃ ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhap-paṭicchannāyo ekaccā tīhappaṭicchannāyo ekaccā ca-tūhappaṭicchannāyo ekaccā pañcāhappaṭicchannāyo ekaccā chāhappaṭicchannāyo ekaccā sattāhappaṭic-channāyo ekaccā aṭṭhāhappaṭicchannāyo ekaccā na-vāhappaṭicchannāyo ekaccā dasāhappaṭicchannāyo [2]. So' haṃ bhante saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhā-naparivāsaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe... yācāmi".
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày, có tội che giấu ba ngày, có tội che giấu bốn ngày, có tội che giấu năm ngày, có tội che giấu sáu ngày, có tội che giấu bảy ngày, có tội che giấu tám ngày, có tội che giấu chín ngày, có tội che giấu mười ngày. Bạch quí Ngài, tôi xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian của tội đã che giấu mươi ngày. Lần thứ nhì ... nt ... Lần thứ ba ... nt...
Kế đến Tăng phải thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ekaccā tīhappaṭicchannāyo ekaccā catūhappaṭicchan-nāyo ekaccā pañcāhappaṭicchannāyo ekaccā chāhap-paṭicchannāyo ekaccā sattāhappaṭicchannāyo ekaccā aṭṭhāhappaṭicchannāyo ekaccā navaàhappaṭicchannā- yo ekaccā dasaàhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghas-sa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tā- saṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhā- naparivāsaṃ deti. Yass'āyasmato khamati itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānapa-rivāsassa dānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày, có tội che giấu ba ngày, có tội che giấu bốn ngày, có tội che giấu năm ngày, có tội che giấu sáu ngày, có tội che giấu bảy ngày, có tội che giấu tám ngày, có tội che giấu chín ngày, có tội che giấu mười ngày. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mười ngày. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mươi ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma này đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày, có tội che giấu ba ngày, có tội che giấu bốn ngày, có tội che giấu năm ngày, có tội che giấu sáu ngày, có tội che giấu bảy ngày, có tội che giấu tám ngày, có tội che giấu chín ngày, có tội che giấu mười ngày. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mười ngày. Tăng cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mươi ngày. việc cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mười này, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội đã che giấu mười ngày. Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Tỳ-kheo ấy khi được Tăng chấp nhận cho biệt trú như vậy rồi, hãy thọ trì pháp biệt trú như sau:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần)
Tôi xin thọ trì sự biệt trú, tôi thọ trì pháp hành.
Sau khi thọ pháp hành biệt trú, hãy trình pháp với Tăng, và sau này trong thời gian biệt trú nếu gặp vị Tỳ-kheo thanh tịnh nào chưa được biết mình thì cũng hãy khai trình với vị ấy. Lời khai trình như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulānaṃ āpattiyo āpajjiṃ ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo pe ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappa-ṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivasāmi vediyām'ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅgho dhāretu". (đọc ba lần)
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo trị giá thời gian tội che giấu mười ngày. Tăng đã cho tôi biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Tôi đang biệt trú. Bạch quí ngài, tôi xin khai trình, xin Tăng nhận biết tội khai trình rồi.
Nếu ban ngày không tiện hành pháp và trình pháp thì phải xả để thọ trì lúc đêm. lời xả như sau:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (đọc ba lần).
Tôi xin xả biệt trú, tôi xin xả pháp hành.
Cách thức Agghasamodhānamānatta:
Khi đã mãn thời gian biệt trú, Tỳ-kheo qua giai đoạn hai, tự hối sáu đêm (mānatta). Tỳ-kheo ấy nên tìm đến Tăng để xin hành pháp, như sau:
"Ahaṃ bhante sambahulānaṃ āpattiyo āpaj-jiṃ ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchan-nāyo. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhā-naparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpat-tīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ ag-ghena samodhānaparivāsaṃ adāsi. So'haṃ bhante parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ yācāmi"
Dutiyampi ... pe...
Tatiyampi ... pe ...
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Bạch quí ngài, tôi đã mãn biệt trú nay tôi xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Lần thứ nhì ... nt ... lần thứ ba ... nt ...
Kế đến Tăng phải được thông qua bằng tuyên ngôn để cho Tỳ-kheo hành mānatta, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tā- saṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samo-dhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthaparivāso saṅ-ghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... Ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhā-naparivāsaṃ adāsi. So parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅ-gho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ deti. Yassā'yasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười này. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Vị ấy mãn biệt trú xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo sáu đêm tự hối về những tội ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày ...v.v... có tội che giấu mười này. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Vị ấy mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tăng cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ..ṇên nói ra. lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tỳ-kheo khi được Tăng chấp nhận, hãy thọ trì pháp hành như sau:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (đọc 3 lần).
Tôi thọ trì mānatta, tôi thọ trì pháp hành.
Tỳ-kheo đã thọ trì phận sự mānatta, phải khai trình với Tăng mỗi ngày như vầy:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhap-paṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasā-happaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivā-saṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samo-dhānaparivāsaṃ adāsi. So'haṃ parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So'haṃ mānattaṃ carāmi. Vedi-yām' ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅgho dhāretu ."
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mươi ngày; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Tôi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tôi đang hành pháp tự hối. Bạch quí Ngài, tôi xin khai trình; xin Tăng hãy nhận biết cho tôi, người khai trình rồi.
Nếu trong thời gian đang hành pháp có trường hợp khó khăn không thể khai trình thì tạm xả phận sự và sẽ thọ lại lúc đêm trước khi mặt trời mọc. Lời xả như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (đọc ba lần).
Tôi xả mānatta, tôi xả pháp hành.
Cách thức Agghasamodhānābbhānakam-ma:
Khi đã trải qua sáu đêm tự hối, Tỳ-kheo ấy đáng được phục vị; Tăng hội 21 vị nên phục vị Tỳ-kheo ấy bằng cách làm tăng sự tứ bạch tuyên ngôn.
Tỳ-kheo ấy hãy đến Tăng và ngỏ lời xin phục vị như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhap-paṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasā-happaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samo-dhānaparivāsaṃ adāsi. So'haṃ parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yā- ciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So'haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tati-yampi ...pe... "
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mươi ngày; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Tôi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Bạch quí Ngài, tôi đã qua đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị. Lần thứ nhì ... nt ... lần thứ ba ... nt ...
Tăng phải thông qua tuyên ngôn để phục vị Tỳ-kheo ấy, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekāhappaṭicchan-nāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasā-happaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samo-dhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhik-khuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭic-channāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ adā-si. So parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji ekaccā āpattiyo ekāhappaṭicchannāyo ekaccā dvīhappaṭicchannāyo ...pe... ekaccā dasāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ tā-saṃ āpattīnaṃ yā āpattiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ yā āpat-tiyo dasāhappaṭicchannāyo tāsaṃ agghena samo-dhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthaparivāso saṅ-ghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅ-ghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhik-khuṃ abbheti. Yass'āyasmato khamati itthannā-massa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh'assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ va-dāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi ."
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết theo giá trị thời gian che giấu mười ngày. Vị ấy mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã qua đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, thì Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, có tội che giấu một ngày, có tội che giấu hai ngày v.v... có tội che giấu mười ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng kết tội theo giá trị thời gian tội che giấu mười ngày. Vị ấy mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã qua đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị; Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị; Tăng chấp nhận nên mới im lặng tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
XỬ LÝ TỘI TỔNG HỢP TỘI DANH
Trường hợp này gọi là missakasamodhāna. Vị Tỳ-kheo phạm nhiều điều trong giới tăng tàng, mỗi lần phạm có tội danh khác nhau, và che giấu. Tăng phải xử phạt theo cách tổng hợp các tội khác nhau đó và cho biệt trú một lần; thời gian biệt trú là cộng chung thời gian che giấu mỗi tội. Cũng qua ba giai đoạn: biệt trú (parivāsa), tự hối (mānatta) và phục vị (abbhāna).
Cách thức Missakasamodhānaparivāsa:
Tỳ-kheo phạm tội đã khai nhận rồi, nên tìm đến Tăng và ngỏ lời xin biệt trú, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ekaṃ kāyasaṃsaggaṃ ekaṃ duṭṭhullavācaṃ ekaṃ attakāmaṃ ekaṃ sañcarittaṃ ekaṃ kuṭikāraṃ vihārakāraṃ ekaṃ duṭṭhadosaṃ ekaṃ aññabhāgiyaṃ ekaṃ saṅghabhedaṃ ekaṃ bhe-dānuvattakaṃ ekaṃ dubbaccaṃ ekaṃ kuladūsakaṃ [3]. So' haṃ bhante saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tati-yampi .pe."
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh, một điều thân xúc chạm, một điều nói lời tục, một điều dụ gái hầu hạ mình, một điều làm mai dong, một điều làm cốc liêu một điều xây tịnh xá, một điều giận vu cáo, một điều vịn cớ khống, một điều chia rẽ tăng, một điều tùng chia rẽ, một điều tỏ khó dạy, một điều quấy rối tục gia. Bạch quí Ngài, tôi xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy.
Tiếp đến chúng Tăng cần được thông qua tuyên ngôn để cho Tỳ-kheo ấy biệt trú, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ekaṃ kāyasaṃsaggaṃ ekaṃ duṭṭhullavācaṃ ekaṃ attakāmaṃ ekaṃ sañcarittaṃ ekaṃ kuṭikāraṃ ekaṃ vihārakāraṃ ekaṃ duṭṭhado-saṃ ekaṃ aññabhāgiyaṃ ekaṃ saṅghabhedaṃ ekaṃ bhedānuvattakaṃ ekaṃ dubbacaṃ ekaṃ kuladūsaka. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ samodhāna-parivāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kuladūsakaṃ. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yā-cati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ deti. Yass'āyasman-to khamati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattī-naṃ samodhānaparivāsassa dānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāso. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh, một điều thân xúc chạm, một điều nói lời tục, một điều dụ gái hầu hạ mình, một điều làm mai dong, một điều cất liêu cốc, một điều xây tịnh xá, một điều giận vu cáo, một điều vịn cớ khống, một điều chia rẽ tăng, một điều tùng chia rẽ, một điều tỏ khó dạy, một điều quấy rối tục gia. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy. Nếu đã hợp với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo itthan-nāma biệt trú tổng hợp các tội ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh ...v.v... một điều quấy rối tục gia. Vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy. Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp các tội ấy, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Sự biệt trú tổng hợp các tội ấy đã được tăng cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma; Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc đó như vậy.
Khi đã được Tăng cho biệt trú, Tỳ-kheo ấy thọ trì pháp trước Tăng như sau:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi (nói ba lần)
Tôi xin thọ trì biệt trú, tôi thọ trì pháp hành.
Là người đang thọ trì sự biệt trú, Tỳ-kheo phải trình pháp với Tăng, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpatti-yo āpajjiṃ ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kula-dūsakaṃ. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samo-dhānaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So'haṃ pari-vasāmi vediyām' ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅ-gho dhāretu."
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh v.v... một điều quấy rối tục gia. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy. Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp các tội ấy. Tôi đang biệt trú; bạch quí Ngài, tôi xin khai trình. Xin Tăng hãy nhận biết cho tôi là người khai trình rồi.
Lời xả pháp hành khi cần phải xả:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi. (nói ba lần).
Cách thức Missakasamodhānamānatta:
Khi đã mãn thời gian biệt trú, vị Tỳ-kheo đến giai đoạn hành pháp tự hối sáu đêm, Tỳ-kheo ấy phải tìm đến Tăng để xin hành mānatta, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ekaṃ kāyasaṃsaggaṃ ekaṃ duṭṭhullavācaṃ ekaṃ attakāmaṃ ekaṃ sañcarittaṃ ekaṃ kuṭikāraṃ ekaṃ vihārakāraṃ ekaṃ duṭṭha-dosaṃ ekaṃ aññabhāgiyaṃ ekaṃ saṅghabhedaṃ ekaṃ bhedānuvattakaṃ ekaṃ dubbaccaṃ ekaṃ kula-dūsakaṃ. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samo-dhānaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārat-taṃ mānattaṃ yācāmi. Dutiyampi ... Tatiyampi .."
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh, một điều xúc chạm thân, một điều nói tục tĩu, một điều dụ gái hầu hạ mình, một điều làm mai dong, một điều làm cốc liêu, một điều xây tịnh xá, một điều giận vu cáo, một điều vịn cớ khống, một điều chia rẽ tăng, một điều tùng chia rẽ, một điều tỏ khó dạy, một điều quấy rối tục gia. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp các tội ấy. Tôi đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy.
Tiếp đến chúng Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kuladūsakaṃ. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārat-taṃ mānattaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kuladūsakaṃ. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ deti. Yass'āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Dinnaṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh v.v... môt điều quấy rối tục gia. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp các tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về các tội ấy. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho sáu đêm tự hối về những tội ấy đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh v.v... môt điều quấy rối tục gia. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp các tội ấy. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy đối với Tỳ-kheo Itthannāma. Việc cho sáu đêm tự hối về những tội ấy đối với Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thư hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Sáu đêm tự hối về những tội ấy đã được Tăng cho đối với Tỳ-kheo Itthannāma, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc đó như vậy.
Tỳ-kheo thọ trì mānatta như sau:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi.
Tôi xin thọ trì Itthannāma, tôi thọ trì pháp hành (nói ba lần)
Tỳ-kheo là người đang hành mānatta phải trình pháp với Tăng như vầy:
Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpat-tiyo āpajjiṃ ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kula-dūsakaṃ. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samo-dhānaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivutthaparivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So'haṃ mānattaṃ carāmi vediyām' ahaṃ bhante vediyatī'ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh v.v... một điều quấy rối tục gia. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp các tội ấy. Tôi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Tôi đang thực hành pháp tự hối; bạch quí Ngài, tôi xin khai trình. Xin Tăng nhận biết cho tôi là người khai trình rồi.
Trong thời gian hành mānatta nếu có duyên cớ khó có thể trình pháp ban ngày, hãy xả pháp để thọ trì lại ban đêm. Lời xả pháp như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần) .
Tôi xin xả pháp mānatta, tôi xả pháp hành.
Cách thức Missakasamodhānābbhāna:
Sau khi hành mānatta đủ sáu đêm, Tỳ-kheo ấy đáng được phục vị. Hãy đi đến Tăng hội chúng 21 vị và ngỏ lời xin Tăng phục vị, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajjiṃ ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ekaṃ kāyasaṃsaggaṃ ekaṃ duṭṭhullavācaṃ ekaṃ attakāmaṃ ekaṃ sañca-rittaṃ ekaṃ kuṭikāraṃ ekaṃ vihārakāraṃ ekaṃ duṭṭhadosaṃ ekaṃ aññabhāgiyaṃ ekaṃ saṅ-gha-bhedaṃ ekaṃ bhedānuvattakaṃ ekaṃ dubbacaṃ ekaṃ kuladūsakaṃ. So' haṃ saṅghaṃ tāsaṃ āpat-tīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅ-gho tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So haṃ parivutthaparivāsāso saṅghaṃ tāsaṃ āpat-tīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācā-mi. Dutiyampi ... Tatiyampi ..."
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội tăng tàng, một điều làm di tinh, một điều xúc chạm thân, một điều nói tục tĩu, một điều dụ gái hầu hạ mình, một điều làm mai dong, một điều cất cốc liêu, một điều xây tịnh xá, một điều giận vu cáo, một điều vịn cớ khống, một điều chia rẽ Tăng, một điều tùng chia rẽ, một điều tỏ khó dạy, một điều quấy rối tục gia. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp các tội ấy. Mãn biệt trú tôi đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về những tội ấy. Bạch quí Ngài, tôi đã đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị. Lần thứ nhì ... Lần thứ ba ..
Tăng chúng cần phải thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisaṭṭhiṃ ...pe... ekaṃ kuladūsakaṃ. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇa-mā-natto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ ab-bheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā saṅghādisesā āpattiyo āpajji ekaṃ sukkavisatthiṃ ...pe... ekaṃ kuladūsakaṃ. So saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yā-ci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpat-tīnaṃ samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivutthapa-rivāso saṅghaṃ tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno tāsaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamā- natto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho itthannā-maṃ bhikkhuṃ abbheti. Yass' āyasmato khamati it-thannāmassa bhikkhuno abbhānaṃ so tuṇh'assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamat-thaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi ."
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội Tăng tàng, một điều làm di tinh ... v.v... một điều quấy rối tục gia. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp các tội ấy. Mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội Tăng tàng, một điều làm di tinh v.v... một điều quấy rối tục gia. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp các tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp các tội ấy. Mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về những tội ấy; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về những tội ấy. Vị ấy đã đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị; Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phục vị Tỳ-kheo itthannàma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāmađã được Tăng phục vị; Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
XỬ LÝ TỘI TÁI PHẠM KHI ÐANG THỌ PHẠT
Trường hợp này gọi là Odhānasamodhāna.
Tỳ-kheo đang thọ hình biệt trú (parivāsa) hoặc đang hành pháp tự hối (mānatta) chưa được phục vị bình thường thì lại phạm tội khác nữa; Tăng phải xử lý bằng cách đúc kết tội cũ (mūlāpatti) và tội mới (antarāpatti) cho làm lại từ đầu, bỏ hết thời gian đã chịu phạt vừa qua.
Xử lý trường hợp nầy, trước tiên phải quy tập tội mới thành tội cũ; Tỳ-kheo ấy ngỏ lời xin Tăng qui tập như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pakkhappaṭicchannāyo. [4] So' haṃ saṅghaṃ samba-hulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pak-khaparivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ adāsi. So' haṃ parivasanto antarā sam-bahulā āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ bhante saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikas-sanaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe... paṭi-kassanaṃ yācāmi".
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về nhiều tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về nhiều tội che giấu nửa tháng. Khi đang biệt trú tôi đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Bạch quí Ngài, nay tôi xin Tăng qui tập tội mới che giấu năm ngày lại với tội cũ. lần thứ hai ... nt ... lần thứ ba ... nt ...
Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannāyo pakkhaparivāsaṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yācati. Yadi saṅghassa patta-kallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mū-lāya paṭikasseyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassati. Yass' āyas-mato khamati Itthannāmassa bhikkhuno antarā sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mū-lāya paṭikassanā so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... So bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Paṭikassito saṅghena itthannāmo bhikkhu antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi."
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy xin Tăng qui tập tội mới che giấu năm ngày với tội cũ. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ về những tội mới che giấu năm ngày. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú, vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy xin Tăng qui tập tội mới che giấu năm ngày với tội cũ; Tăng qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Sự qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba, tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Tăng chấp nhận nên im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Cách thức Odhānasamodhānaparivāsa:
Sau khi Tăng đã qui tập tội mới thành tội cũ như thế rồi, Tỳ-kheo phải hành biệt trú trở lại từ đầu, bỏ hết thời gian đã biệt trú dở dang. Vị ấy phải ngỏ lời xin biệt trú như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pakkhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So' haṃ parivasanto antarā sambahu-lānaṃ āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yā-ciṃ. Taṃ maṃ saṅgho antarā sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So' haṃ bhante saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpat-tīsu samodhānaparivāsaṃ yācāmi. Dutiyampi ...pe... Tatiyampi ...pe... samodhānaparivāsaṃ yācāmi".
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang biệt trú, tôi đã phạm tiếp những tội che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng qui tập tội mới che giấu năm ngày với tội cũ; Tăng đã qui tập tội về tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Bạch quí ngài, tôi xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. lần thứ hai ... nt ... lần thứ ba ... nt ...
Tăng phải được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So Saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno antarā sambahulānaṃ āpattī-naṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So Saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ yācati. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ pu-rimāsu āpattīsu samodhānaparivāsassa dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyam-pi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Dinno saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāso. khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi ."
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập về tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma về tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày. Nay vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội, che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập về tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma về tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày. Nay vị ấy xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước.Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước, Tăng chấp nhận bởi thế im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó nhự vậy.
Tỳ-kheo nọ khi đã được cho phép biệt trú, hãy nên thọ trì pháp hành giữa Tăng, như sau:
Parivāsaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (3 lần).
Tôi thọ trì sự biệt trú, tôi thọ trì pháp hành.
Là người đang thọ trì pháp hành biệt trú, vị ấy phải trình pháp với Tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị khác, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pakkhappaṭicchannāyo. So' haṃ Saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ. So' haṃ parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ Saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāciṃ. Taṃ maṃ saṅgho antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhap-paṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So' haṃ Saṅ-ghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappa-ṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me Saṅgho antarā sambahulā-naṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ pariva-sāmi vediyām' ahaṃ bhante vediyatī' ti maṃ saṅgho dhāretu".
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú tôi đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Tôi xin Tăng qui tập tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập tôi lại tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với những tội trước. Tôi đang biệt trú, bạch quí ngài, tôi xin khai trình; mong Tăng hãy nhận biết cho tôi là người khai trình rồi.
Trong thời gian biệt trú, nếu gặp trở ngại vì duyên cớ chính đáng, Tỳ-kheo có thể xả pháp hành tạm thời, để sau đó thọ trì lại; xả như sau:
Parivāsaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi.
Tôi xả biệt trú, tôi xả pháp hành. (nói ba lần).
Cách thức Odhānasamodhānamānatta:
Khi đã mãn thời gian biệt trú, Tỳ-kheo ấy bước qua giai đoạn hành mānatta, sáu ngày tự hối. Vị ấy tìm đến Tăng và bạch xin hành mānatta như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pakkhappaṭicchannāyo. So' haṃ Saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So' haṃ parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ Saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāciṃ. Taṃ maṃ saṅgho antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So' haṃ Saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānapa-rivāsaṃ yāciṃ. Tassa me Saṅgho antarā sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ bhante parivuṭṭhaparivāso Saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yācāmi. Dutiyampi ... Tati-yampi ...".
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú tôi đã phạm tiếp nhiều tội mới che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập tôi lại tội tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Bạch quí ngài, tôi đã mãn biệt trú, nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về nhiều tội ấy. Lần thứ nhì ... lần thứ ba ...
Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpat-tiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho it-thannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhāna-parivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulā-naṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmassa bhik-khuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānat-taṃ dadeyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho itthannānaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchan-nānaṃ purimāsu āpattīnaṃ samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno antarā sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ pu-rimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpat-tīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yācati. Saṅgho itthan-nāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ chā-rattaṃ mānattaṃ deti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattassa dānaṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ va-dāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Din-naṃ saṅghena Itthannāmassa bhikkhuno sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Khi đang biệt trú vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về nhiều tội. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho sáu đêm tự hối đến Tỳ-kheo Itthannāma về nhiều tội ấy. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Vị ấy khi đang biệt trú đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Vị xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Vị ấy đã mãn biệt trú nay xin Tăng cho sáu đêm tự hối về nhiều tội; Tăng cho sáu đêm tự hối đến Tỳ-kheo Itthannāma về nhiều tội ấy. Việc cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về nhiều tội, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì hãy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ hai tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cho sáu đêm tự hối về nhiều tội. Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
Dứt tuyên ngôn, Tỳ-kheo ấy hãy thọ trì pháp hành trước chư Tăng như sau:
Mānattaṃ samādiyāmi vattaṃ samādiyāmi. (nói ba lần).
Tôi xin thọ pháp mānatta, tôi thọ trì phận sự.
Trong thời gian thọ trì pháp mānatta, Tỳ-kheo ấy phải trình báo với Tăng mỗi ngày, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pak-khappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So' haṃ parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhap-paṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāciṃ. Taṃ maṃ saṅgho antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So'haṃ saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhap-paṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānapari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho antarā sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ mānattaṃ carāmi vediyām' ahaṃ bhante vediyatī'ti maṃ saṅgho dhāretu.
Bạch quí Ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về nhiều tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về nhiều tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú, tôi đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng qui tập lại tội gốc vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập tôi lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Tôi xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Khi đã mãn biệt trú tôi xin Tăng cho sáu đêm tự hối về các tội; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về các tội. Nay tôi đang hành pháp tự hối, tôi xin trình báo, bạch quí Ngài, xin Tăng nhận biết cho tôi là người trình báo rồi.
Ðang thời gian hành mānatta, nếu có duyên cớ phải tạm thời xả pháp hành thì xả với một vị hoặc nhiều vị như sau:
Mānattaṃ nikkhipāmi vattaṃ nikkhipāmi (nói ba lần).
Tôi xin xả pháp mānatta, tôi xin xả phận sự .
Cách thức Odhānasamodhānābbhānakamma:
Khi đã qua đủ sáu đêm hành mānatta, nếu Tỳ-kheo ấy có hạnh kiểm tốt đáng được phục vị (abbhānāraha) thì tăng nên phục vị Tỳ-kheo ấy.
Vị Tỳ-kheo ấy hãy đến hội chúng tăng trên hai mươi vị Tỳ-kheo, đảnh lễ Tăng trưởng lão rồi tác bạch xin phục vị, như sau:
Ahaṃ bhante sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pak-khappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkha-parivāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So' haṃ parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajjiṃ pañcāhappaṭicchannāyo. So' haṃ saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhap-paṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāciṃ. Taṃ maṃ saṅgho antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So' haṃ saṅ-ghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhap-paṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhāna-pari-vāsaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho antarā sambahu-lānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So' haṃ pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāciṃ. Tassa me saṅgho sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ adāsi. So' haṃ bhante ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācāmi. Dutiyampi ... Tatiyampi ...
Bạch quí ngài, tôi đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho tôi biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú, tôi đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập tôi lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Tôi đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho tôi biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Khi đã mãn biệt trú tôi đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về các tội; Tăng đã cho tôi sáu đêm tự hối về các tội. Bạch quí Ngài, tôi đã đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị. Lần thứ nhì ... lần thứ ba.
Tăng cần được thông qua bằng tuyên ngôn như sau:
"Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcā-happaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭic-channānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno antarā sam-bahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ pu-rimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So parivuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattī-naṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho itthannā-massa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārat-taṃ mānattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ abbheyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu sambahulā āpattiyo āpajji pakkhappaṭic-channāyo. So saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivāsaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ pakkhappaṭicchannānaṃ pakkhaparivā-saṃ adāsi. So parivasanto antarā sambahulā āpattiyo āpajji pañcāhappaṭicchannāyo. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassanaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañ-cāhappaṭicchannānaṃ mūlāya paṭikassi. So saṅghaṃ antarā sambahulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchan-nānaṃ purimāsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ yā-ci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno antarā samba-hulānaṃ āpattīnaṃ pañcāhappaṭicchannānaṃ puri-māsu āpattīsu samodhānaparivāsaṃ adāsi. So pari-vuṭṭhaparivāso saṅghaṃ sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mānattaṃ yāci. Saṅgho Itthannāmassa bhikkhuno sambahulānaṃ āpattīnaṃ chārattaṃ mā-nattaṃ adāsi. So ciṇṇamānatto saṅghaṃ abbhānaṃ yācati. Saṅgho ithannāmaṃ bhikkhuṃ abbheti. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno abbhā-naṃ so tuṇh' assa yassa nakkhamati so bhāseyya. Dutiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Tatiyampi etamatthaṃ vadāmi.
Suṇātu me bhante saṅgho ...pe... so bhāseyya. Abbhito saṅghena itthannāmo bhikkhu. Khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi".
*
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về nhiều tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Vị ấy khi mãn biệt trú đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về các tội. Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về các tội. Ðủ thời tự hối nay vị ấy xin Tăng phục vị; nếu đã hợp thời với Tăng, tăng hãy nên phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Ðó là lời bố cáo .
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã phạm nhiều tội che giấu nửa tháng. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng; Tăng đã cho Tỳ-kheo itthannàma biệt trú nửa tháng về những tội che giấu nửa tháng. Ðang khi biệt trú, vị ấy đã phạm tiếp nhiều tội che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng qui tập lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày; Tăng đã qui tập Tỳ-kheo Itthannāma lại tội cũ vì những tội mới che giấu năm ngày. Vị ấy đã xin Tăng cho biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma biệt trú tổng hợp những tội mới che giấu năm ngày lại với các tội trước. Khi mãn biệt trú vị ấy đã xin Tăng cho sáu đêm tự hối về các tội; Tăng đã cho Tỳ-kheo Itthannāma sáu đêm tự hối về các tội. Vị ấy đã đủ thời tự hối nay xin Tăng phục vị; Tăng phục vị Tỳ-kheo Itthannāma. Việc phục vị Tỳ-kheo Itthannāma, nếu Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Lần thứ nhì tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Lần thứ ba tôi xin tuyên bố ý nghĩa đó.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi ... nt ... nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng phục vị; Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận sự việc đó như vậy.
* * *
Kết luận:
Tăng sự trị phát tội tăng tàng là một hình thức tăng sự phức tạp, Tỳ-kheo được xuất tội phải trải qua nhiều giai đoạn xử lý. Vị Luật sư cần nắm bắt sự kiện cụ thể, lập văn tự cho khế hợp thống nhất trong bản tuyên ngôn trình Tăng ở giai đoạn cho biệt trú, cho pháp tự hối, phục vị ...
Mặt khác, vị luật sư phải thông hiểu những nguyên tắc trong vấn đề nầy như là những phận sự nên làm và không nên làm của vị đang thọ phát biệt trú, đang hành pháp tự hối, để nhắc nhở vị Tỳ-kheo can phạm. Về phần Tăng chúng, các vị Tỳ-kheo phải giám sát mọi sở hành của Tỳ-kheo ấy, và khích lệ động viên để thực hiện tốt phận sự.
DỨT TĂNG SỰ TRỊ PHẠT TỘI TĂNG TÀNG.
-ooOoo-
[1] Dùng số nhiều: Sambahulā āpattiyo (nhiều tội), nói tổng quát như vậy cũng được càng tốt, dù chỉ phạm tội, lại nữa chỉ nói āpatti (tội) không cần nói đến tội lỗi theo điều giới cũng được.
[2] Ðây là văn tự làm mẫu, trên thực tế luật sư phải sắp xếp cho phù hợp lần phạm tội và thời gian che giấu.
[3] Thật sự có phạm những điều nào thì nói ra tội danh những điều đó thôi. Luật sư nên sắp đặt.
[4] Cần chú ý sắp xếp văn tự trình thời gian cho hợp với hoàn cảnh thực tế, tội cũ (mūlāpatti) và tội mới (antarāpatti) đã phạm và che giấu bao lâu.
-ooOoo-
PHÉP SÁM HỐI TỘI
(ĀPATTIDESANĀ)
Tội (āpatti) là mức độ lỗi lầm đã vi phạm trong điều luật mà Ðức Phật đã cấm chế.
Tội của Tỳ-kheo phạm luật trong giáo pháp nầy qui định có 7 thứ:
- tội triệt khai (pārājika),
- tội tăng tàng (saṅghādisesa),
- tội thô suất (thullaccaya),
- tội ưng phát lộ (pāṭidesanīya),
- tội ưng xả đối trị (nissaggiyapācittiya),
- tội ưng đối trị (pācittiya),
- tội tác ác (dukkaka), và
- tội ác khẩu (dubbhāsita).
Tội triệt khai hay tội bất cộng trụ, là tội mất gốc, không thể sám hối xuất tội với bất cứ hình thức gì.
Tội tăng tàng cần được xuất tội bằng cách thọ phạt biệt trú trước tăng hội.
Ngoài hai tội trên đây, các tội khác đều có thể xuất tội bằng cách sám hối (paṭidesanā). Sám hối là đối mặt với một vị Tỳ-kheo thanh tịnh khác rồi bày tỏ lỗi lầm mình đã phạm và nguyện hứa chừa cãi sau nầy.
Có ba cách sám hối:
- Cách sám hối phổ thông, đối với các tội thullaccaya, pācittiya, dukkata, dubbhāsita.
- Cách sám hối tội ưng phát lộ
- Cách sám hối tội ưng xả đối trị.
1) Cách sám hối phổ thông.
* Sám hối đích tội danh đã phạm từng điều luật.
Vị sám hối nói: Ahaṃ bhante [1] ekaṃ thul-laccayaṃ [2] āpattiṃ āpanno taṃ paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một tội thô suất, tôi xin sám hối tội ấy.
Vị chứng tội hỏi: Passasi āvuso [3] taṃ āpattim.
Hiền giả, ông có thấy rõ tội ấy chăng?
Vị sám: Āma bhante passāmi.
Bạch ngài, tôi thấy rõ.
Vị chứng: Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi [4].
Hiền giả, ông hãy nên thu thúc sau nầy.
Vị sám: Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi. Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch Ngài, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp.
* Sám hối đích tội danh đã phạm hai điều luật:
Vị Sám: Ahaṃ bhante [5] dve thullaccayāyo [6] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm hai tội thô suất, tôi xin sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo.
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
... tiếp theo có cách thức như trước.
* Sám hối đích tội danh đã phạm nhiều điều luật:
Vị sám: Ahaṃ bhante [7] sambahulā nānā-vatthukāyo thullaccayāyo [8] āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất có điều học khác biệt, tôi xin sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
... Tiếp theo có cách thức như trước.
* Sám hối tổng quát nhiều tội danh:
Vị sám: Ahaṃ bhante sambahulā nānāvat-thukāyo thullaccayāyo ca pācittiyāyo ca dukkatāyo ca dubbhāsitāyo ca āpattiyo āpanno tā paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm nhiều tội thô suất, tội ưng đối trị, tội tác ác và tội ác khẩu có điều học khác biệt; tôi xin sám hối những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
... tiếp theo có cách thức như trước.
* Sám hối tổng quát không nêu tội danh:
Vị sám: Sabbā tā āpattiyo ārocemi. Sabbā garu-lahutā āpattiyo ārocemi. Ahaṃ bhante sambahulā nānāvatthukāyo āpattiyo āpajjiṃ tā tumha mūle paṭidesemi.
Tôi xin khai ra tất cả tội ấy, Tôi xin khai ra tất cả tội nặng nhẹ. Bạch ngài, tôi đã phạm nhiều tội có những điều học khác nhau, tôi xin sám hối với Ngài những tội ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso tā āpattiyo?
Hiền giả, ông thấy rõ những tội ấy chăng?
... tiếp theo có cách thức như trước.
2) Cách sám hối tội ưng phát lộ (pāṭide-sanīya).
Tội ưng phát lộ là tội do phạm trong bốn điều học ưng phát lộ (pāṭidesanīyasikkhāpada); cách xuất tội này cũng bằng cách đối mặt sám hối, có cách thức tương tợ như trước nhưng lời trình tội có khác đôi chút như sau:
Vị sám: Gārayhaṃ bhante [9] dhammaṃ āpajjiṃ [10] asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ paṭidesemi.
Bạch ngài, tôi đã phạm một điều đáng quở trách, không thích hợp, cần được phát lộ, tôi xin sám hối điều ấy.
Vị chứng: Passasi āvuso?
Hiền giả, ông thấy rõ chăng?
v.v...
3) Cách sám hối tội ưng xả đối trị (nissag-giya)
Tội ưng xả đối trị là tội do phạm trong ba mươi điều học ưng xả (nissaggiya).
Tội ưng xả đối trị cần được sám hối bằng cách là trước phải giao ra vật sanh tội đáng xả bỏ rồi sám hối ưng đối trị sau.
Vật sanh tội tức là vật ưng xả, như là y tích trử, y rời xa đêm, bình bát dư, vàng bạc ...v.v...
Vật ưng xả phải xả bỏ trước Tăng, hay trước nhóm Tỳ-kheo, hoặc trước một vị Tỳ-kheo khác.
Tội ưng xả đối trị có nhiều trường hợp như sau:
* Sám hối tội giữ y dư quá hạn.
Sám hối với Tăng; Tỳ-kheo phạm tội ấy cầm lấy y ưng xả đi đến Tăng rồi tuyên bố xả bỏ như sau:
Idaṃ [11] me bhante [12] cīvaraṃ dasāhātikkan-taṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch đại đức Tăng, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ y nầy đến Tăng.
Một vị trong tăng sẽ tự nhận đại diện Tăng để chứng tội sám hối của vị Tỳ-kheo ấy; tự nhận bằng lời trình Tăng như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yadi saṅghassa pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ [13].
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội, nhận tội, khai tội, thú tội. Nếu đã hợp thời với tăng, tôi xin được chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.
Tiếp đến Tỳ-kheo can phạm sẽ sám hối với vị đại diện Tăng:
Sám - Ahaṃ bhante [14] ekaṃ nissaggiyaṃ pācittiyaṃ āpanno taṃ [15] paṭidesemi.
Bạch Ngài, tôi phạm một điều ưng xả đối trị, tôi xin sám hối điều ấy.
Chứng - Passasi āvuso taṃ āpattiṃ?
Hiền giả, ông thấy rõ tội ấy chăng?
Sám - Āma bhante passāmi.
Bạch Ngài, tôi thấy rõ.
Chứng - Āyatiṃ āvuso saṃvareyyāsi.
Hiền giả, ông nên thu thúc sau nầy.
Sám - Sādhu suṭṭhu bhante saṃvarissāmi.
Lành thay, bạch ngài, tôi sẽ thu thúc tốt đẹp.
Sau khi Tỳ-kheo ấy xả vật sanh tội và sám hối như vậy xong, vị đại diện Tăng phải tuyên ngôn trình tăng để cho y lại Tỳ-kheo ấy, như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho, idaṃ [16] cīvaraṃ it-thannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅghassa nissaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.
Tỳ-kheo khi được cho lại y ưng xả phải làm theo luật để hợp thức hoá sử dụng y dư, bằng cách ký gởi (xem phần ký gởi y bát).
Trường hợp sám hối ưng xả với nhóm Tỳ-kheo 2, 3 vị. Tỳ-kheo nói lời xả bỏ y dư đến nhóm Tỳ-kheo như sau:
Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Bạch quí ngài, y nầy của tôi đã giữ quá hạn mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ y này đến các Tôn giả.
Một vị trong nhóm sẽ nhận đại diện để chứng tội cho Tỳ-kheo sám hối, bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āyasmantā ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttānīkaroti deseti. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ ahaṃ Itthannāmas-sa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyyaṃ.
Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma nầy nhớ ra tội, nhận tội, khai tội, thú tội. Nếu đã hợp thời với chư Tôn giả, tôi xin được chứng nhận tội cho Tỳ-kheo Itthannāma.
Tiếp đến là nghi thức sám hối, giống như phần trước.
Nhóm Tỳ-kheo cho lại vị ấy y đã xả bằng cách, tuyên ngôn như sau:
Suṇantu me āysmantā idaṃ cīvaraṃ it-than-nāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasmantānaṃ nis-saṭṭhaṃ. Yad' āysmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.
Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là y ưng xả của Tỳ-kheo Itthannāma, đã xả bỏ đến các Tôn giảṆếu hợp thời với các Tôn giả, các Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma y nầy.
*
Chú ý những thay đổi cần thiết, xem phần trước.
Y dư phạm ưng xả, nếu không có dịp xả với tăng hay nhóm Tỳ-kheo, thì xả bỏ và sám hối với một vị Tỳ-kheo khác cũng được. Lời xả bỏ y dư như sau:
Idaṃ me bhante cīvaraṃ dasāhātikkantaṃ nissaggiyaṃ imā' haṃ āyasmato nissajjāmi.
Bạch Ngài, y nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xả bỏ y nầy đến Ngài.
Tiếp theo áp dụng nghi sám hối, như phần trước.
Vị kia phải nói cho lại y xả, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại Tôn giả y nầy.
Chú ý các thay đổi cần thiết .
* Sám hối tội rời bỏ y cách đêm
Tỳ-kheo ngoài thời hạn quả báo Kaṭhina lại để rời khỏi hắc tay cách đêm một trong tam y (y nội, y vai trái, y Tăng-già-lê) thì phạm ưng xả đối trị.
Y đã rời xa ấy thành vật phải xả bỏ xả trước Tăng hay nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị nào khác cũng được, rồi sám hối.
Nếu sám hối với Tăng, xả bỏ y phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante [17] saṅghāti [18] ekarattiṃ vippavuṭṭhā [19] aññatra bhikkhusammatiyā nis-saggiyā [20] imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch quí ngài, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; Tôi xin xả bỏ y nầy đến tăng.
Tiếp đến, Tăng cử đại diện để chứng tội, Tỳ-kheo sám hối, và Tăng cho lại y xả, mọi nghi thức tuyên ngôn và sám hối đều áp dụng giống như trong cách "sám hối tội giữ y dư quá hạn", phần Tăng xử lý.
Nếu sám hối với nhóm 2 hay 3 vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ y phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Bạch các Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; tôi xả bỏ y nầy đến các Tôn giả.
Tiếp theo, nhóm cử đại diện chứng tội, Tỳ-kheo sám hối, và nhóm cho lại y xả, mọi nghi thức đều áp dụng như cách "sám hối tội giữ y dư quá hạn" phần do nhóm xử lý.
Nếu là trường hợp sám hối với một vị Tỳ-kheo khác, thì lời xả bỏ y phạm tội như sau:
Ayaṃ me bhante saṅghāṭi ekarattiṃ vippa-vuṭṭhā aññatra bhikkhusammatiyā nissaggiyā imā ' haṃ āyasmato nissajjāmi.
Thưa Tôn giả, y Tăng-già-lê nầy của tôi đã rời xa cách đêm, thành vật ưng xả, trừ phi Tỳ-kheo được cho phép; tôi xin xả bỏ y nầy đến Tôn giả.
Tiếp theo mọi nghi thức khác hãy áp dụng như trong tội giữ y quá hạn, do một vị xử lý.
* Sám hối tội giữ bình bát dư.
Vị Tỳ-kheo có bát dư, cất giữ bát dư quá mười ngày phạm tội ưng xả đối trị, bình bát ấy phải xả bỏ.
Có thể xả bỏ bát dư ấy đến tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị cũng được.
Xả bỏ bình bát dư đến Tăng, nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch đại đức Tăng, đây là bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ bát nầy đến Tăng.
Tiếp theo, Tăng cử đại diện chứng tội và Tỳ-kheo đương sự hãy sám hối với vị ấy, mọi nghi thức như trước.
Sau cùng Tăng cho lại Tỳ-kheo ấy bình bát bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ patto itthan-nāmassa bhikkhuno nissaggiyo saṅghassa nisaṭṭho. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya [21].
Bạch đại đức tăng, hãy nghe tôi, đây là bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại bình bát nầy đến Tỳ-kheo itthannàma.
Tỳ-kheo đã được lại bát phải ký gởi theo luật mới nên cất giữ hoặc sử dụng.
*
Trường hợp xả bỏ bình bát dư đến nhóm vài ba vị Tỳ-kheo thì lời xả bỏ như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā' haṃ āyasmantānaṃ nissajjāmi.
Thưa các Tôn giả, bình bát nầy của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến các Tôn giả.
Tiếp theo cử một vị đại diện cho nhóm để chứng tội cho Tỳ-kheo ấy, và vị ấy sám hối; nghi thức giống như cách sám hối tội giữ y dư, với nhóm Tỳ-kheo thụ lý.
Rồi sau đó nhóm Tỳ-kheo cho lại bình bát xả, bằng tuyên ngôn như vầy:
Suṇantu me āyasmantā ayaṃ patto itthannā-massa bhikkhuno nissaggiyo āyasmantānaṃ nisaṭ-ṭho. Yad' āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ pattaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyyuṃ.
Thưa các Tôn giả, hãy nghe tôi, đây là bình bát của Tỳ-kheo Itthannāma, thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến các Tôn giảṆếu đã hợp thời với các Tôn giả, các Tôn giả hãy cho lại Tỳ-kheo Itthannāma bình bát nầy.
Khi Tỳ-kheo được cho lại bình bát, hãy theo luật ký gởi mới nên sử dụng hoặc cất giữ.
Trường hợp xả bỏ bình bát dư đến một vị, thì nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto dasāhātikkanto nissag-giyo imā'haṃ āyasmato nissajjāmi .
Bạch Ngài, đây là bình bát của tôi đã giữ quá mười ngày, thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến Ngài.
Tiếp đó làm nghi thức sám hối, vị Tỳ-kheo kia hãy nói cho lại bình bát:
Imaṃ pattaṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại Tôn giả bình bát nầy.
Ðược lại bình bát Tỳ-kheo hãy làm theo luật ký gởi.
* Sám hối tội tìm bình bát trái phép.
Tỳ-kheo sử dụng bình bát chưa hư cũ, chưa bị lủng bể hơn năm dấu, bèn đi tìm kiếm bình bát mới, phạm tội ưng xả đối trị. Bình bát mới ấy phải xả bỏ.
Trường hợp này chỉ được làm nghi thức xuất tội với Tăng (saṅgha) thôi, chớ không thể sám hối xả bát với nhóm hay với một vị được.
Bình bát mới ấy cần được xả bỏ đến Tăng, nói như sau:
Ayaṃ me bhante patto ūnapañcabandhanena pattena cetāpito nissaggiyo imā' haṃ saṅghassa nisajjāmi.
Bạch đại đức Tăng, đây là bình bát của tôi, đã tìm kiếm khi bình bát cũ chưa hư bể được năm vết, thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ bình bát nầy đến Tăng.
Tiếp đến, Tăng chứng tội cho Tỳ-kheo ấy sám hối. Tăng cử đại diện chứng tội sám hối bằng cách thông qua tuyên ngôn, nghi thức giống ở trước trong phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Sau khi Tỳ-kheo ấy sám hối ưng đối trị xong, Tăng hãy cho lại Tỳ-kheo ấy bình bát, nhưng không phải cho bình bát vừa xả đó mà cho bằng cách chuyễn đổi.
Việc chuyển đổi, Tăng sẽ cử ra một vị thực hiện, đề cử bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho. Yadi saṅghassa pat-takallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ pattag-gāhāpakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho. Saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ pattaggāhāpakaṃ sammannati. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno pattaggāhāpakassa sammati so tuṇh' assa yassa nak-khamati so so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu pattaggāhāpako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi, Tăng cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát. Nếu việc cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người trao bát, vị Tôn giả nào chấp nhận thì im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người trao bát, Tăng chấp nhận mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Vị Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy thực hiện việc chuyễn đổi bình bát, trước tiên cầm bát ưng xả đó trao cho vị lớn nhất rồi lấy bình bát của trưởng lão trao cho vị kế, lấy bình bát vị ấy trao cho vị kế nữa, cứ thế chuyển đổi đến vị cuối cùng trong tăng, mới lấy bình bát của vị cuối cùng ấy trao lại cho Tỳ-kheo đương sự và nói:
Ayante bhikkhu patto yāva bhedanāya dhāre-tabbo.
Nầy Tỳ-kheo, đây là bình bát của Ngài phải nên giữ cho đến khi bể hư.
Vị Tỳ-kheo ấy phải hoan hỷ nhận bát. Ðó là cách hợp thức hóa trong việc này.
* Sám hối tội thu giữ vàng bạc.
Tỳ-kheo tự mình thọ lãnh hoặc bảo người thọ lãnh hoặc bảo người thọ lãnh hoặc vui thích kho tàng sở hữu, phạm ưng xả đối trị. Vàng bạc châu báu ấy phải xả bỏ giữa Tăng rồi sám hối mới xuất tội được.
Tỳ-kheo đem vàng bạc ấy đến Tăng và nói xả bỏ như sau:
Ahaṃ bhante rūpiyaṃ paṭiggahesiṃ, idaṃ me bhante nissaggiyaṃ imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch đại đức Tăng, Tôi đã thọ nhận vàng bạc; bạch đại đức Tăng, vàng bạc nầy thành vật ưng xả, tôi xin xả bỏ đến Tăng.
Sau khi xả bỏ vật sanh tội, Tỳ-kheo ấy hãy làm lễ sám hối, Tăng cử đại diện chứng tội bằng tuyên ngôn, cách thức giống như ở phần Tăng xử lý "tội giữ y dư".
Trường hợp vật ưng xả là vàng bạc, Tăng phải cử người ném bỏ mất đi chớ không nên cho lại Tỳ-kheo.
Nếu tại đấy có người cư sĩ đứng gần, Tăng nên bảo họ rằng: "Ngươi hãy biết xử lý vật nầy" người ấy hỏi lại: "với vật này phải đem vật chi đến?", Tăng chỉ nên nói là hãy đem vật cần dùng. Sau đó nếu cư sĩ mang lại nhu yếu phẩm cho chư Tỳ-kheo, Tăng chia nhau dùng ngoại trừ Tỳ-kheo đương sự.
*
Cũng có thể bảo người cư sĩ ấy đem liệng bỏ vàng bạc, không cần gợi ý cho họ đổi thành nhu yếu phẩm. Nếu người cư sĩ ấy không chịu lấy liệng bỏ, Tăng nên cử một vị đủ đức tính hiền thiện để đem liệng bỏ vàng bạc ấy. Tăng cử bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅgho Itthannāmaṃ bhikkhuṃ rūpiya-chaḍḍakaṃ sammanneyya. Esā ñatti.
Suṇātu me bhante saṅgho saṅgho itthan-nāmaṃ bhikkhuṃ rūpiyachaḍḍakaṃ sammannati. Yass' āyasmato khamati Itthannāmassa bhikkhuno rūpiyachaḍḍakassa sammati so tuṇh' assa yassa nak-khamati so bhāseyya. Sammato saṅghena itthan-nāmo bhikkhu rūpiyachaḍḍako khamati saṅghassa tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayāmi.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cử Tỳ-kheo Itthannāma làm người liệng bỏ vàng bạc. Ðó là lời bố cáo.
Bạch đại đức Tăng, Tăng cử Tỳ-kheo itthan-nāma làm người liệng bỏ vàng bạc. Việc cử Tỳ-kheo itthannàma làm người liệng bỏ vàng bạc, nếu vị Tôn giả nào chấp nhận thì hãy im lặng, như vị nào không chấp nhận thì nên nói ra. Tỳ-kheo Itthannāma đã được Tăng cử làm người liệng bỏ vàng bạc, Tăng chấp nhận nên mới im lặng. Tôi xin ghi nhận việc đó như vậy.
Tỳ-kheo được Tăng cử, hãy đem vàng bạc liệng bỏ cho mất biệt, Tăng chẳng nên chỉ định chỗ liệng bỏ. Ðó là cách hợp thức hóa trong việc nầy.
* Sám hối tội kinh doanh tiền tệ.
Tỳ-kheo kinh doanh mua bán bằng tiền bạc dưới nhiều hình thức, phạm tội ưng xả đối trị. Tiền bạc ấy phải xả bỏ. Tiền bạc ấy gồm tiền giấy, tiền đồng, tiền vàng ...
Tiền bạc do kinh doanh, phải xả bỏ trước Tăng và sám hối, Tăng ném bỏ tiền bạc ấy.
Phải xả bỏ như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ rūpiyasaṃvo-hāraṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā' haṃ saṅghassa nissajjāmi.
Bạch đại đức Tăng, tôi đã kinh doanh tiền bạc dưới nhiều hình thức, tiền bạc nầy thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ tiền nầy đến Tăng.
Sau khi xả bỏ tiền bạc, Tỳ-kheo hãy sám hối tội lỗi, và Tăng nên cử đại diện chứng tội bằng tuyên ngôn, mọi nghi thức đều giống như trước ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Tiền bạc đã được xả đến Tăng, Tăng nên cử người đem ném bỏ. Tuyên ngôn cử người ném bỏ tiền bạc, áp dụng giống như ở phần xử lý tội nhận lãnh vàng bạc vậy.
* Sám hối tội mậu dịch hàng hóa.
Tỳ-kheo làm mậu dịch trao đổi hàng hóa, dùng vật này trao đổi vật kia, thậm chí trao đổi y bát để lấy đồ dùng khác ... đó gọi là hình thức mậu dịch, Tỳ-kheo phạm tội ưng xả đối trị. Hàng phẩm mậu dịch phải xả bỏ.
Có thể xả bỏ đến Tăng hoặc nhóm Tỳ-kheo hoặc một vị khác.
Xả bỏ với Tăng, nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ. Imā' haṃ saṅ-ghassa nissajjāmi.
Bạch đại đức Tăng tôi đã mậu dịch hay hóa dưới nhiều hình thức, hàng này của tôi thành vật ưng xả. Tôi xin xả bỏ vật này đến Tăng.
Xả bỏ vật rồi Tỳ-kheo hãy sám hối tội, Tăng nên cử đại diện để chứng tội sám hối, mọi nghi thức giống như ở phần Tăng xử lý tội giữ y dư.
Sau khi Tỳ-kheo đã sám hối, Tăng nên cho lại vật ấy, bằng tuyên ngôn như sau:
Suṇātu me bhante saṅgho ayaṃ itthannāmo bhikkhu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ saṅ-ghassa nisaṭṭhaṃ. Yadi saṅghassa pattakallaṃ saṅ-gho imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadeyya.
Bạch đại đức Tăng, hãy nghe tôi. Tỳ-kheo Itthannāma nầy đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả, đã được xả bỏ đến Tăng. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật này.
Trường hợp xả bỏ hàng hóa đến nhóm hai, ba, vị Tỳ-kheo thì nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā' haṃ āyas-mantānaṃ nissajjāmi.
Bạch các Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả; tôi xin xả bỏ vật này đến các Tôn giả.
Tiếp đến là nghi thức sám hối, và một vị đại diện nhóm do tuyên ngôn đề cử sẽ chứng tội cho Tỳ-kheo sám hối, mọi cách thức làm giống như ở phần nhóm Tỳ-kheo xử lý tội giữ y dư.
Sau cùng nhóm Tỳ-kheo hãy tuyên ngôn cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, như sau:
Suṇantu me āyamantā ayaṃ itthannāmo bhik-khu nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajji idaṃ Itthannāmassa bhikkhuno nissaggiyaṃ āyasman-tānaṃ nisaṭṭhaṃ. Yad'āyasmantānaṃ pattakallaṃ āyasmantā imaṃ Itthannāmassa bhikkhuno dadey-yuṃ.
Bạch chư Tôn giả, hãy nghe tôi, Tỳ-kheo Itthannāma đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của Tỳ-kheo Itthannāma thành vật ưng xả đã xả bỏ đến chư Tôn giả. Nếu đã hợp thời với chư Tôn giả, chư Tôn giả hãy nên cho lại Tỳ-kheo Itthannāma vật nầy.
Trường hợp xả bỏ vật phạm tội đến một vị Tỳ-kheo khác, hãy nói như sau:
Ahaṃ bhante nānappakārakaṃ kayavikkayaṃ samāpajjiṃ idaṃ me nissaggiyaṃ imā'haṃ āyas-mato nissajjāmi.
Bạch Tôn giả, tôi đã mậu dịch hàng hóa dưới nhiều hình thức, vật này của tôi thành vật ưng xả, tôi xả bỏ vật này đến Tôn giả.
Tiếp đến Tỳ-kheo ấy sám hối với vị đó. Xong rồi vị đó sẽ cho lại Tỳ-kheo ấy vật đã xả, nói như sau:
Imaṃ āyasmato dammi.
Tôi cho lại Tôn giả vật này.
DỨT PHÉP SÁM HỐI TỘI
-ooOoo-
PHÉP TRỊ PHẠT PHẠM ÐÀN
(BRAHMADAṆḌAKAMMA)
Phạm-đàn (brahmadaṇḍa) là hình thức trị phạt vị Tỳ-kheo tánh tình không tốt, ngang ngạnh, công kích chư Tỳ-kheo, khó giáo dục xây dựng. Phạm-đàn là hình phạt ngưng giao thiệp với đối tượng, và được xem là hình phạt nặng nề đối với vị Tỳ-kheo, sẽ khiến vị ấy cảm thấy khó chịu, bị cô lập, bị bỏ rơi ngoài hàng ngũ tăng chúng để rồi phải tự sửa chữa tự hối cãi.
Khi có một vị Tỳ-kheo lỗi lầm xúc phạm đến chư Tăng mà vị ấy ngoan cố không biết nhận lỗi, chư Tăng hãy xử phạm-đàn đối với vị ấy. Cách thức xử phạm đàn không cần tuyên ngôn (ñatti), chỉ là tăng sự nghị quyết (apalokana) được rồi.
Họp Tăng lại, một vị thông hiểu luật hãy trình bày để tăng nghị quyết, như sau:
Bhante itthannāmo bhikkhu mukharo bhikkhū duruttavacanehi ghaṭento viharati, So bhikkhu yaṃ iccheyya taṃ vadeyya bhikkhūhi itthannāmo bhik-khu n' eva vattabbo na ovāditabbo na anusāsitabbo. Saṅghaṃ bhante pucchāmi Itthannāmassa bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa. Dutiyampi pucchāmi Itthannāmassa bhante bhikkhuno brahmadaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa. Tatiyampi pucchāmi Itthannāmassa bhante bhikkhuno brah-madaṇḍassa dānaṃ ruccati saṅghassa.
Bạch đại đức Tăng, Tỳ-kheo Itthannāma là người xảo ngôn, xúc phạm chư Tỳ-kheo với những lời bất nhã. Tỳ-kheo ấy muốn nói gì thì nói; Tỳ-kheo Itthannāma không đáng cho chư Tỳ-kheo nói đến, không đáng giáo huấn, không đáng chỉ dạy. Bạch đại đức Tăng, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng cho phạt phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng? Lần thứ hai, tôi xin hỏi, Tăng có bằng lòng cho phạt phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng? Lần thứ ba, tôi xin hỏi, Tăng có bằng lòng cho phạt phạm đàn đối với Tỳ-kheo Itthannāma chăng?
Tăng biểu quyết chấp nhận bằng cách im lặng. Từ đây chư Tỳ-kheo sẽ ngưng giao thiệp với Tỳ-kheo ấy, cho đến khi vị ấy biết hối lỗi, sám hối với Tăng thì chư Tỳ-kheo mới giao thiệp lại.
Khi Tỳ-kheo ấy đã biết phục thiện sám hối với chư Tỳ-kheo, thì Tăng nên làm Tăng sự nghị quyết (apalokana) để giải tỏa hình phạt. Một vị thông hiểu hãy trình bày như sau:
Bhante bhikkhusaṅgho asukassa bhikkhuno brahmadaṇḍaṃ adāsi. So bhikkhu soratto virato nivātavutti lajjidhammaṃ okkanto hirottappe patiṭ-ṭhito paṭisaṅkhā āyatiṃ saṃvare tiṭṭhati. Saṅghaṃ bhante pucchāmi tassa bhikkhuno brahmadaṇḍassa paṭippas-saddhi ruccati saṅghassa. Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi tassa bhikkhuno brahmadaṇ-ḍassa paṭippassaddhi ruccati saṅghassa. Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi tassa bhikkhuno brah-madaṇḍassa paṭippassaddhi ruccati saṅghassa.
Bạch đại đức Tăng, Tăng Tỳ-kheo đã cho hình phạt phạm-đàn đối với Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo ấy đã nghiêm túc, cởi mở, hài hòa, có liêm sỉ, sống tàm quý, nhận thức sẽ thu thúc về sau. Bạch đại đức Tăng, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt phạm đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng? lần thứ hai, tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt phạm-đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng? lần thứ thứ ba tôi xin hỏi Tăng, Tăng có bằng lòng giải tỏa hình phạt phạm đàn đối với Tỳ-kheo ấy chăng?
Tăng biểu quyết chấp nhận bằng cách im lặng.
DỨT PHÉP TRỊ PHẠT PHẠM ÐÀN.
-ooOoo-
PHÉP ÐƯA THỎA HIỆP TĂNG SỰ
(CHANDADĀNA)
Tỳ-kheo Tăng đồng trú trong một cương giới (sīma) phải hòa hợp làm tăng sự, không có vị Tỳ-kheo nào ở ngoài Tăng khoảng cách quá hắc tay; như vậy tăng sự mới thành, và tỳ-kheo không phạm lỗi tác ác do gây trở ngại tăng sự của chư Tỳ-kheo.
Trường hợp vị tỳ-kheo hữu sự thích đáng như bị bệnh chẳng hạn, không thể vào họp tăng để làm tăng sự thì phải đưa lời đến Tăng hội bày tỏ sự đồng ý và hoan hỷ của mình với việc Tăng làm.
Sự đưa thỏa hiệp tăng sự, có 3 trường hợp:
a) Ðối với tăng sự phổ thông.
b) Ðối với tăng sự bố-tát.
c) Ðối với tăng sự tự tứ.
Ðối với tăng sự phổ thông, là những tăng sự ngoài việc bố-tát (uposatha) và việc tự tứ (pavāra-ṇā), vị Tỳ-kheo không vào ngồi dự với tăng được, thì thỉnh một vị Tỳ-kheo nào đó đến và nói như sau:
Chandaṃ dammi chandaṃ me hara chandaṃ me ārocehi (ba lần)
Nếu nhờ vị cao hạ hơn thì nói:
Chandaṃ dammi chandaṃ me haratha chan-daṃ me ārocetha (ba lần).
Tôi xin gởi thỏa hiệp, Ngài hãy đem đi và trình lời thỏa hiệp của tôi.
Phần vị Tỳ-kheo lãnh lời, khi đến nơi tăng trước lúc làm tăng sự, hãy trình bạch cho tăng biết sự thỏa hiệp của Tỳ-kheo vắng mặt, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo mayhaṃ chandaṃ adāsi tassa chando mayā āhato sādhu bhante saṅgho dhāretu.
Bạch đại đức tăng, Tôn giả Itthannāma đã trao lời thỏa hiệp cho tôi, lời thỏa hiệp của vị ấy tôi đã mang đến rồi, kính mong chư tăng ghi nhận.
Nếu trình tăng lời thỏa hiệp của Tỳ-kheo thấp hạ hơn mình thì nói:
Itthannāmo bhante bhikkhu mayhaṃ chandaṃ adāsi tassa chando mayā āhaṭo sādhu bhante saṅgho dhāretu .
Bạch đại đức Tăng, Tỳ-kheo Itthannāma đã đưa lời thỏa hiệp cho tôi, lời thỏa hiệp của vị ấy tôi đã mang đến rồi, kính mong chư Tăng ghi nhận.
*
Ðối với Tăng sự bố-tát, là tăng sự tụng giới bổn và sám hối thanh tịnh của chư Tỳ-kheo trong ngày bố-tát (uposatha).
Vào ngày chư tăng làm lễ bố-tát, nếu vị Tỳ-kheo nào trong chùa vì hữu sự không thể vào chánh điện dự tăng sự bố-tát, thì phải đưa lời thỏa hiệp và tỏ sự thanh tịnh (gọi chung là chandaparisuddhi) để nhờ vị Tỳ-kheo khác đem trình Tăng.
Cách đưa lời thỏa hiệp tăng sự (chanda) giống như cách đã trình bày; cách tỏ sự thanh tịnh (parisuddhi) như sau:
Pārisuddhiṃ dammi pārisuddhiṃ me hara pārisuddhiṃ me ārocehi [22].
Tôi tỏ sự thanh tịnh, ông hãy đem đi và trình sự thanh tịnh của tôi.
Phần vị Tỳ-kheo nhận chuyển lời, sau khi đến chỗ Tăng hội trước lúc làm tăng sự tụng giới, hãy trình tăng lời thỏa hiệp của Tỳ-kheo bệnh rồi trình tăng sự tỏ thanh tịnh của vị ấy như vầy:
Āyasmā bhante itthannāmo [23] gilāno pari-suddho' ti paṭijāni parisuddho' ti taṃ saṅgho dhāretu.
Bạch đại đức Tăng, Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã tự nhận thanh tịnh, xin chư Tăng nhận biết vị ấy là người thanh tịnh.
Hoặc có thể trình một lần cả hai việc, lời thỏa hiệp và sự thanh tịnh của Tỳ-kheo bệnh, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo gilāno mayhaṃ chandañca pārisuddhiñca adāsi tassa chando ca pa-risuddhi ca mayā āhaṭā sādhu bhante saṅgho dhā-retu.
Bạch đại đức Tăng, Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã đưa lời thỏa hiệp và sự thanh tịnh với tôi; lời thỏa hiệp và sự thanh tịnh của vị ấy tôi đã đem đến đây, kính mong chư tăng ghi nhận.
*
Ðối với Tăng sự tự tứ, là tăng sự yêu cầu chỉ lỗi làm trong ngày mãn thời an cư tức là ngày tự tứ (pavāraṇā).
Vào ngày chư Tăng làm lễ tự tứ, nếu vị Tỳ-kheo nào trong chùa bị bệnh không thể vào họp tăng làm lễ được thì hãy đưa lời thỏa hiệp và lời tự tứ (gọi chung là chandappavāranā) nhờ vị Tỳ-kheo bạn đem trình tăng.
Cách đưa lời thỏa hiệp tăng sự (chanda) cũng giống như cách đã trình bày ở trước; cách đưa lời tự tứ (pavāraṇā) như sau:
Pavāraṇaṃ dammi pavāraṇaṃ me hara pavā-raṇaṃ me ārocehi.
Tôi đưa lời tự tứ, ông hãy đem đi và trình lời tự tứ của tôi.
Có nói cách khác cũng được:
Pavāraṇaṃ dammi pavāraṇaṃ me hara mam atthāya pavārehi.
Tôi đưa lời tự tứ, ông hãy đem đi và hãy làm tự tứ cho tôi.
Phần vị Tỳ-kheo nhận chuyển lời, hãy đi đến Tăng, trước khi Tăng làm tự tứ hãy trình lời thỏa hiệp và lời tự tứ của Tỳ-kheo bệnh, như sau:
Āyasmā bhante itthannāmo gilāno mayhaṃ chandañca pavāraṇañca adāsi tassa chando ca pavā-raṇā ca mayā āhaṭā sādhu bhante saṅgho dhāretu.
Bạch đại đức Tăng, Tôn giả Itthannāma bị bệnh, vị ấy đã đưa lời thỏa hiệp và lời tự tứ cho tôi; lời thỏa hiệp và lời tự tứ của vị ấy tôi đã đem đến, kính mong chư Tăng ghi nhận.
DỨT PHÉP ÐƯA THOẢ HIỆP TĂNG SỰ.
-ooOoo-
PHÉP NHẬP HẠ
(VASSŪPAGATA)
Mùa mưa (vassāna-utu) là thời an cư cấm túc của chư Tỳ-kheo. Theo phật lịch thì mùa mưa chính thức bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âl cho đến rằm tháng 10 (4 tháng), nhưng luật có qui định thời an cư chỉ 3 tháng. Do đó việc nhập hạ của chư Tỳ-kheo có hai thời, thời tiền an cư (purimikā vassū-panāyikā) và thời hậu an cư (pacchimikā vassūpa-nāyikā).
Thời tiền-an-cư từ ngày 16 tháng 6 đến rằm tháng 9 âl. Thời hậu-an-cư ngày 16 tháng 7 đến rằm tháng 10 âl. Tỳ kheo thường nhập hạ trong thời tiền-an-cư, chỉ khi nào có việc không kịp thời tiền-an-cư mới theo thời hậu-an-cư.
Ðến thời an cư mà vị Tỳ-kheo cố ý không nhập hạ thời nào thì phạm tác ác (dukkata).
Cách thức nhập hạ là đến ngày an cư, sau khi quyết định nơi chỗ, hãy quét dọn sạch sẽ và tích chứa nước dùng đầy đủ (nếu chỗ ở hiếm nước). Chỗ an cư có thể là một ngôi chùa (ārāma), ngôi tịnh thất (vihāra), một cư xá (āvāsa), hoặc một liêu cốc riêng (senāsana); định nhập hạ ở đâu thì nguyện ở đó. Có thể phát nguyện một mình, hoặc có nhiều vị cùng nhập hạ thì phát nguyện đồng loạt.
Lời phát nguyện nhập hạ như sau:
Imasmiṃ ārāme [24] imaṃ temāsaṃvassaṃ upemi [25].
Tôi nguyện an cư mùa mưa tại chùa nầy hết ba tháng.
Trong thời gian an cư nếu rời khỏi chỗ qua đêm thì đứt hạ, trừ khi có nguyện giải giới. Tỳ-kheo có việc cần làm như biết tin cha, mẹ, thầy, bạn đau bệnh, hoặc Tăng sự, hoặc cư sĩ thỉnh mời thì được phép nguyện giải giới ra đi nhưng hạn trong bảy ngày phải về trước khi mặt trời mọc ngày thứ bảy.
Cách nguyện giải giới an cư như sau:
Sace me antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi.
Nếu không có sự trở ngại cho tôi, tôi sẽ trở về trong vòng bảy ngày.
Nguyện ra lời hoặc nghĩ trong tâm cũng được, hoặc báo với vị khác mục đích đi đó cũng được. Cần chú ý là ngày đầu mới nguyện nhập hạ chưa được một đêm thì không được phép giải giới an cư để đi; mặc khác, khi chỉ còn vài ngày nữa là mãn hạ thì dù có đi luôn cũng phải nguyện giải giới bằng không sẽ đứt hạ.
DỨT PHÉP NHẬP HẠ.
-ooOoo-
PHÉP SỬ DỤNG Y BÁT
* Sử dụng y (Cīvara)
Y là trang phục của vị Tỳ-kheo. Y phục chính có 3 thứ, gọi là tam y (ticīvara):
- saṅghāti (y tăng-già-lê hay y kép),
- uttarāsaṅga (y uất-đà-la-tăng hay y vai trái),
- antarāvāsaka (y an-đà-hội hay y nội).
Ngoài tam y còn có 6 thứ phụ thuộc khác:
- vassi-kasāṭika (y tắm mưa),
- nisīdana (tọa cụ),
- paccat-tharaṇā (ngọa cụ),
- kaṇḍuppaṭicchādi (vải băng ghẻ),
- mukhapuñchanacoḷa (khăn lau mặt),
- parikkhāracoḷa (y phụ tùng).
Y phụ tùng gồm có:
- kāyabandhana (giây buộc lưng),
- urabandhana (giây buộc ngực),
- ṭhavika (dèm hay túi nải),
- aṃsaka (hằng sắc hay y lót mồ hôi).
Tất cả các trang phục trên, Tỳ-kheo đều phải nguyện thành tên; riêng về tam y phải làm dấu hoại sắc trước khi nguyện tên.
* Cách làm dấu tam y
Dùng mực một trong 3 màu là màu xanh hoặc màu xám hay màu đen khuyên tròn ở bốn góc y, điểm nhỏ cỡ mắt gà hay mút đũa, vừa đánh dấu vừa nguyện:
Imaṃ bindukappaṃ karomi (3 lần).
Tôi làm dấu y này.
* Cách nguyện đặt tên y.
Chú tâm đến lá y rồi chú nguyện :
Imaṃ [26] saṅghāṭiṃ [27] adhiṭṭhāmi (3 lần).
Tôi nguyện đây là y Tăng-già-lê.
* Xả bỏ y cũ.
Khi đổi thay y mới hoặc không dùng xài nữa thì phải xả bỏ y cũ. Chú tâm đến y đó và nói:
Imaṃ [28] saṅghātiṃ [29] paccuddharāmi (3 lần).
Tôi xả bỏ y Tăng-già-lê nầy.
* Sử dụng bát (patta)
Bình bát có 2 thứ là ayopatta (bát sắt) và mattikapatta (bát đất). Tỳ-kheo sử dụng bình bát cũng phải nguyện đặt tên; bình bát không cần làm dấu (bindu).
* Cách nguyện bát.
Chú tâm đến cái bát và nguyện rằng:
Imaṃ [30] ayopattaṃ [31] adhiṭṭhāmi. (3 lần)
Tôi chú nguyện bát sắt nầy.
* Cách xả bỏ bình bát.
Khi không dùng bình bát đó nữa thì phải xả bỏ, chú tâm như sau:
Imaṃ [32] pattaṃ paccuddharāmi. (3 lần)
Tôi xả bỏ bình bát nầy.
*
Y bát dù chưa nguyện xả bỏ nhưng khi bị rách, lủng lổ thì xem như đã đứt tên nguyện. Y bị rách thân vải trong cách đường biên quá 8 cm (4 ngón tay), chỗ rách lổ vừa đầu ngón tay, như vậy là hỏng. Bình bát bị rò rỉ lủng bể phần dưới đáy, lỗ vừa lọt hạt cơm, như vậy là hỏng.
Y có thể đổi thay tìm y mới, dù y cũ chưa rách; riêng bình bát nếu chưa lủng bể quá năm dấu thì không được tìm đổi bình bát mới.
DỨT PHÉP SỬ DỤNG Y BÁT
-ooOoo-
PHÉP KÝ GỞI Y BÁT
(VIKAPPA)
Sự ký gởi giống như ký thác cái gì cho ai, để không bận tâm với cái đó nữa.
Y dư (atirekacīvara) và bát dư (atirekapatta), Tỳ-kheo giữ lâu lắm là mười ngày, nếu quá hạn sẽ phạm luật ưng xả đối trị. Trường hợp giữ không phạm tội là y bát dư đã ký gởi (vikappa) cho người khác rồi.
Có thể ký gởi đến vị Tỳ-kheo khác hoặc vị sa-di nào đó cũng được; sự ký gởi có hai cách: Trực tiếp và gián tiếp.
* Cách ký gởi trực tiếp.
Gởi ngay vị ấy, gọi là ký gởi trực tiếp. Tỳ-kheo muốn ký gởi y bát cho vị nào thì đem y bát đến tìm vị ấy và nói như sau:
Imaṃ [33] cīvaraṃ [34] āyasmato vikappemi.
Tôi ký gởi y này đến Tôn giả.
Vị nhận ký gởi ấy nên ủy quyền cho Tỳ-kheo người gởi, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ mayhaṃ santakaṃ paribhuñja vā visajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohi.
Y nầy là sở thuộc của tôi, Ngài hãy dùng xài hoặc phân phát hoặc sử dụng tuỳ duyên.
* Cách ký gởi gián tiếp.
Ký gởi cho người vắng mặt, gọi là gởi gián tiếp.
Tỳ-kheo muốn ký gởi cho vị sư bạn nhưng không được giáp mặt thì hãy nói với một vị khác thay mặt, nói như sau:
Imaṃ cīvaraṃ [35] Itthannāmassa bhikkhuno [36] vikappemi.
Tôi ký gởi y nầy đến Tỳ-kheo Itthannāma.
Vị được nhờ ký gởi cũng nên đại diện để ủy quyền lại Tỳ-kheo người gởi, như sau:
Imaṃ cīvaraṃ Itthannāmassa bhikkhuno san-takaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohi.
Y nầy là sở thuộc của Tỳ-kheo Itthannāma, Ngài hãy dùng xài hoặc phân phát hoặc sử dụng tùy duyên.
DỨT PHÉP KÝ GỞI Y BÁT
-ooOoo-
Luật nghi tổng quát, chỉ trình bày những nghi thức tăng sự và các phận sự phổ thông của vị Tỳ-kheo, không thể gọi là đầy đủ. Các lý giải cần được bậc Tăng trí thức tham khảo riêng.
CHUNG
-ooOoo-
TRI ÂN
Chúng tôi xin chân thành cảm niệm công đức các vị đã phát tâm hùn phước tịnh tài để in ấn quyển Luật Nghi Tổng Quát:
1. Tu nữ Diệu Từ (Vĩnh Long)
2. Tu nữ Huệ Phúc (TP Hồ Chí Minh)
3. Tín nữ Ngọc Thủy (Vĩnh Long)
4. Tín nữ Ngọc Tâm (Vĩnh Long)
5. Gia đình Ðại đức Tuệ Ngạn (TP Hồ Chí Minh)
6. Tín nữ Phan Huệ Cúc (Hoa Kỳ)
Cùng chư tăng và thiện tín đã hỗ trợ tinh thần trong khi chúng tôi soạn thảo quyển sách này.
Nguyện cho tất cả quí vị ấy đều được thành tựu tuệ giải thoát, và trong vòng luân hồi luôn đắc kỳ sở nguyện.
Soạn giả
Tỳ-kheo Giác Giới
2547 - TL 2003
[1] Nếu sám hối với vị nhỏ hạ hơn mình thì đổi tiếng xưng hô là āvuso (hiền giả).
[2] Nếu sám hối tội ưng đối trị thì nói: ekaṃ pācittiyaṃ; tội tác ác thì nói: ekaṃ dukkataṃ; tội ác khẩu thì nói: ekaṃ dubbhāsitaṃ.
[3] Chứng cho vị lớn hạ hơn mình thì hỏi là: passatha bhante taṃ āpattiṃ.
[4] Nhắc nhở vị lớn hạ hơn thì nói là: āyatiṃ bhante saṃvareyyātha.
[5] Cần thay đổi tiếng xưng hô theo hạ lạp.
[6] Nếu là tội khác thì đổi dve pācittiyāyo, hay dve dukkatāyo, hay dve dubbhāsitāyo.
[7] Cần thay đổi tiếng xưng hô theo hạ lạp.
[8] Thay đổi tội danh nếu cần, như pācittiyāyo hay dukkatāyo hay dubbhāsitāyo.
[9] Cần đổi tiếng xưng hô theo hạ lạp .
[10] Tội ưng phát lộ có thể có nhiều vị đồng phạm trong 1 điều luật, và như thế các vị có thể cùng sám hối, phải đổi āpajjiṃ ra là āpajjimhā, và paṭidesemi ra là paṭidesema.
[11] Xả nhiều y dư thì nói imāni ... cīvarāni dasāhātikkantāni nissaggiyāni imān' āhaṃ ...
[12] Nếu Tỳ-kheo chủ y là vị trưởng lão cao hạ hơn tất cả các Tỳ-kheo tăng hội, thì dùng tiếng āvuso thay thế bhante .
[13] Lời tuyên ngôn trình tăng để tự nhận đại diện Tăng chứng tội cho Tỳ-kheo sám hối ưng xả đối trị, sẽ được áp dụng giống nhau trong mọi trường hợp khác.
[14] Tùy theo hạ lạp của vị sám và vị chứng phải biết dùng tiếng āvuso hay bhante cho hợp lẽ như các trường hợp lễ sám hối đã nói trước.
[15] Nếu sám hối hai tội ưng xả thì nói dve nissaggiyāyo pācittiyāyo āpanno tā ...; nếu nhiều tội thì nói sambahulā nissaggiyāyo pācittiyāyo āpanno tā ...
[16] Với nhiều y thì cần thay đổi văn tự thích hợp, đổi imāni cīvarāni thay idaṃ cīvaraṃ, đổi nissaggiyāni thay nissaggiyaṃ, đổi nissaṭṭhāni thay nissaṭṭhaṃ.
[17] Tùy theo hạ lạp mà dùng tiếng bhante hay āvuso .
[18] Nếu là y vai trái thì nói là uttarāsaṅgo; nếu là y nội thì nói là antaravāsako.
[19] Ðối với y uttarāsaṅgo hay y antaravāsako thì phải đổi là vippavuṭṭho.
[20] Nếu là y uttarāsaṅgo hay y antaravāsako thì chỗ nầy phải là nissaggiyo .
[21] Lưu ý sắp văn tự trong lời khai tội với các nghi thức tuyên ngôn chứng tội ... cho hợp nhau.
[22] Nếu nói với vị cao hạ hơn mình thì nói là haratha ... ārocetha.
[23] Nếu chuyển lời trình tăng giúp vị Tỳ-kheo nhỏ hạ hơn mình, thì nói Itthannāmo bhante bhikkhu gilāno v.v...
[24] Thay đổi tùy theo chỗ an cư .
[25] Nếu nhiều vị đồng nguyện hạ thì nói upema .
[26] Nếu nguyện y trong tầm tay thì nói imaṃ nếu ở ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[27] Thay đổi tên trang phục một trong chín thứ đã kể trên: uttarāsaṅgaṃ, antaravāsakaṃ ... v. v...
[28] Nếu vật ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[29] Xả bỏ thứ y nào thì nói tên y đó.
[30] Nếu bình bát để ngoài tầm tay thì nguyện là etaṃ.
[31] Nếu nguyện bát đất thì đổi là mattikapattaṃ. Hoặc nguyện là pattaṃ cho cả bát sắt và bát đất cũng được.
[32] Nếu ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[33] Nếu gởi y bát để ngoài tầm tay thì nói etaṃ.
[34] Nếu gởi bình bát thì nói pattaṃ .
[35] Chú ý thay đổi cần thiết tùy theo vật trong tầm tay hoặc ngoài tầm. Thay đổi tùy theo y (cīvaraṃ) hay bát (pattaṃ). Thay đổi số lượng tùy theo ít hay nhiều.
[36] Nếu là sa-di thì nói Itthannāmassa sāmaṇerassa; nếu là Tỳ-kheo cao hạ hơn thì nói Itthannāmassa āyasmato.
-ooOoo-