[11] Tiểu Kinh Sư Tử Hống – Cūḷasīhanāda Sutta

Sunday September 19, 2021


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), trong vườn ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo.” —“ Bạch Thế Tôn,” những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết như sau

—Này các Tỷ-kheo, chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn. Này các Tỷ-kheo, các Ông hãy chân chánh rống tiếng rống sư tử như vậy.

Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra khi ở đây những Du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà chư Tôn giả tuyên bố: ‘Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất; ở đây là có Sa-môn thứ hai; ở đây là có Sa-môn thứ ba; ở đây là có Sa-môn thứ tư; các ngoại đạo khác không có Sa-môn’”. Này các Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau: “Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: ‘Chỉ ở đây là có Sa-môn thứ nhất, ở đây là có Sa-môn thứ hai; Sa-môn thứ ba; Sa-môn thứ tư ‘. Thế nào là bốn? Chư Hiền, chúng tôi có lòng tin bậc Ðạo Sư, có lòng tin Pháp, có sự thành tựu viên mãn các Giới luật, và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia, được chúng tôi thương, chúng tôi mến. Chư Hiền, vì chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp, được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết, bậc đã thấy, đã biết, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nên chúng tôi nói: ‘Chỉ ở đây là Sa-môn … Sa-môn thứ tư’”.

Này các Tỷ-kheo, sự tình này xảy ra, khi ở đây, những Du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư Hiền, chúng tôi cũng có lòng tin bậc Ðạo Sư, vị ấy là Ðạo Sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin Pháp, Pháp ấy là Pháp của chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các Giới luật, những Giới luật ấy là Giới luật của chúng tôi. Và những pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất gia, được chúng tôi thương, được chúng tôi mến. Chư Hiền, như vậy có sự sai biệt gì, có sự đặc thù gì, có sự khác biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?”.

Chư Tỷ-kheo, nếu được các Du sĩ ngoại đạo nói như vậy, cần phải trả lời họ như sau: “Chư Hiền, cứu cánh là một hay cứu cánh là đa diện?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh là một, cứu cánh không phải đa diện”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có tham, hay cho người không tham?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không tham, không phải cho người có tham”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có sân, hay cho người không sân?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không sân, không phải cho người có sân”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có si hay cho người không si? Nếu trả lời đứng đắn … phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không si, không phải cho người có si”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có ái, hay cho người không ái?” Nếu trả lời đứng đắn … phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ái, không phải cho người có ái”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có chấp thủ, hay cho người không chấp thủ?” Nếu trả lời đứng đắn … phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không chấp thủ, không phải cho người chấp thủ”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người có trí, hay cho người không có trí?” Nếu trả lời đứng đắn … phải trả lời: “Cứu cánh ấy cho người có trí, không phải cho người không có trí”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người thuận ứng, nghịch ứng hay cho người không thuận ứng, không nghịch ứng?” Nếu trả lời đứng đắn … phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không thuận ứng, không nghịch ứng, không phải cho người thuận ứng, nghịch ứng”.:” Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người ưa hý luận, thích hý luận hay cho người không ưa hý luận, không thích hý luận?” Nếu trả lời đứng đắn, các Du sĩ ngoại đạo cần phải trả lời: “Chư Hiền, cứu cánh ấy cho người không ưa hý luận, không thích hý luận, không phải cho người ưa hý luận, thích hý luận”.

Chư Tỷ-kheo, có hai loại tri kiến này: hữu kiến và phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước hữu kiến, thân thiết hữu kiến, cố chấp hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại đối với phi hữu kiến. Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào chấp trước phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến, cố chấp phi hữu kiến; những vị ấy bị chướng ngại bởi hữu kiến.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng, những vị này là những vị có tham, có sân, có si, có ái, có chấp thủ, không có trí, có thuận ứng, có nghịch ứng, có ưa hý luận, có thích hý luận; những vị ấy không giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy không giải thoát khỏi đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào như thật tuệ tri sự tập khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của chúng; những vị này là những vị không tham, không sân, không si, không ái, không chấp thủ, có trí, không có thuận ứng, không có nghịch ứng, không ưa hý luận, không thích hý luận; những vị ấy giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói những vị ấy giải thoát khỏi đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, có bốn chấp thủ. Thế nào là bốn? Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã luận thủ.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ; họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri ba sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về kiến thủ, về giới cấm thủ, về ngã luận thủ.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn hay Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri hai sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ; nhưng không hiển thị sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.

Chư Tỷ-kheo, có những Sa-môn, Bà-la-môn tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chơn chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ. Vì sao vậy? Những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy không như thật tuệ tri một sự. Do vậy, những Hiền giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy tuy tự xưng liễu tri tất cả thủ, nhưng không chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Họ hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, nhưng không hiển thị sự liễu tri về ngã luận thủ.

Chư Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp và Luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.

Và Như Tỷ-kheo, bậc Như Lai, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tự xưng liễu tri tất cả thủ, chân chánh hiển thị sự liễu tri tất cả thủ. Như Lai hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ, sự liễu tri về ngã luận thủ.

Chư Tỷ-kheo, trong Pháp và Luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Ðạo Sư, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có tịnh tín đối với Pháp, tịnh tín ấy được xem là hoàn toàn; nếu có thành tựu viên mãn các Giới luật, sự thành tựu ấy được xem là hoàn toàn; nếu có sự thương mến đối với các pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao vậy? Chư Tỷ-kheo, sự tình là như vậy, trong một Pháp và Luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Ðẳng Giác hiển thị.

Chư Tỷ-kheo, bốn loại chấp thủ này, lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Bốn loại chấp thủ này lấy ái làm duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm chủng, lấy ái làm nhân. Chư Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, ái này lấy thọ làm duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm chủng, lấy thọ làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy gì làm duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm chủng, lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thọ này lấy xúc làm duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm chủng, lấy xúc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm duyên … lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, xúc này lấy sáu nhập làm duyên … lấy sáu nhập làm nhân. Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm duyên … lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy danh sắc làm duyên … lấy danh sắc làm nhân. Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì làm duyên … lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, danh sắc này lấy thức làm duyên … lấy thức làm nhân. Chư Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm duyên … lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, thức này lấy hành làm duyên … lấy hành làm nhân. Chư Tỷ-kheo, hành này lấy gì làm duyên … lấy gì làm nhân? Chư Tỷ-kheo, hành này lấy vô minh làm duyên … lấy vô minh làm nhân.

Và Chư Tỷ-kheo, khi một Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi, vị ấy do vô minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi, nên không chấp thủ dục thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không tháo động, nhờ không tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn; vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

 

Những tập kinh khác:

[01] Kinh Pháp Môn Căn Bản – Mūlapariyāya Sutta

[02] Kinh Tất Cả Lậu Hoặc – Sabbāsava Sutta

[03] Kinh Thừa Tự Pháp – Dhammadāyāda Sutta

[04] Kinh Khiếp Đảm Sợ Hãi – Bhayabherava Sutta

[05] Kinh Không Uế Nhiễm – Anaṅgaṇa Sutta

[06] Kinh Ước Nguyện – Ākaṅkheyya Sutta

[07] Kinh Ví Dụ Tấm Vải – Vatthūpama (Vattha) Sutta

[08] Kinh Đoạn Giảm – Sallekha Sutta

[09] Kinh Chánh Tri Kiến – Sammādiṭṭhi Sutta

[10] Kinh Niệm Xứ – Satipaṭṭhāna Sutta

[11] Tiểu Kinh Sư Tử Hống – Cūḷasīhanāda Sutta

[12] Đại Kinh Sư Tử Hống – Mahāsīhanāda Sutta

[13] Đại Kinh Khổ Uẩn – Mahādukkhakkhandha Sutta

[14] Tiểu Kinh Khổ Uẩn – Cūḷa­dukkha­kkhandha Sutta

[15] Kinh Tư Lượng – Anumāna Sutta

[16] Kinh Tâm Hoang Vu – Cetokhila Sutta

[17] Kinh Khu Rừng – Vanapattha Sutta

[18] Kinh Mật Hoàn – Madhupiṇḍika Sutta

[19] Kinh Song Tầm – Dvedhāvitakka Sutta

[20] Kinh An Trú Tầm – Vitakka­saṇṭhāna Sutta

[21] Kinh Ví Dụ Cái Cưa – Kakacūpama Sutta

[22] Kinh Ví Dụ Con Rắn – Alagaddūpama Sutta

[23] Kinh Gò Mối – Vammika Sutta

[24] Kinh Trạm Xe – Rathavinīta Sutta

[25] Kinh Bẫy Mồi – Nivāpa Sutta

[26] Kinh Thánh Cầu – Ariyapariyesanā (Pāsarāsi)

[27] Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi – Cūḷahatthi­padopama Sutta

[28] Đại Kinh Dụ Dấu Chân Voi – Mahāhatthipadopama Sutta

[29] Đại Kinh Thí Dụ Lõi Cây – Mahāsāropama Sutta

[30] Tiểu Kinh Thí Dụ Lõi Cây – Cūḷasāropama Sutta

[31] Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò – Cūḷagosiṅga Sutta

[32] Đại Kinh Rừng Sừng Bò – Mahāgosiṅga Sutta

[33] Đại Kinh Người Chăn Bò – Mahāgopālaka Sutta

[34] Tiểu Kinh Người Chăn Bò – Cūḷagopālaka Sutta

[35] Tiểu Kinh Saccaka – Cūḷasaccaka Sutta

[36] Đại Kinh Saccaka – Mahāsaccaka Sutta

[37] Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái – Cūḷataṇhā­saṅkhaya Sutta

[38] Đại Kinh Đoạn Tận Ái – Mahātaṇhā­saṅkhaya Sutta

[39] Đại Kinh Xóm Ngựa – Mahā-Assapura Sutta

[40] Tiểu Kinh Xóm Ngựa – Cūḷa-Assapura Sutta

[41] Kinh Sāleyyaka – Sāleyyaka Sutta

[42] Kinh Verañjaka – Verañjaka Sutta

[43] Đại Kinh Phương Quảng – Mahāvedalla Sutta

[44] Tiểu Kinh Phương Quảng – Cūḷavedalla Sutta

[45] Tiểu Kinh Pháp Hành – Cūḷadhamma­samādāna Sutta

[46] Đại Kinh Pháp Hành – Mahādhamma­samādāna Sutta

[47] Kinh Tư Sát – Vīmaṃsaka Sutta

[48] Kinh Kosambiya – Kosambiya sutta

[49] Kinh Phạm Thiên cầu thỉnh – Brahmanimantanika sutta

[50] Kinh Hàng ma – Māratajjanīya sutta

[51] Kinh Kandaraka – Kandaraka sutta

[52] Kinh Bát thành – Aṭṭhakanāgara sutta

[53] Kinh Hữu học – Sekha sutta

[54] Kinh Potaliya – Potaliya sutta

[55] Kinh Jīvaka – Jīvaka sutta

[56] Kinh Ưu-ba-ly – Upāli sutta

[57] Kinh Hạnh con chó – Kukkuravatika sutta

[58] Kinh Vương tử Vô Úy – Abhayarājakumāra sutta

[59] Kinh Nhiều cảm thọ – Bahuvedanīya sutta

[60] Kinh Không gì chuyển hướng – Apannaka sutta

[61] Kinh Giáo giới La-hầu-la ở rừng Ambala – Ambalaṭṭhikā­rāhulovāda Sutta

[62] Ðại Kinh Giáo Giới La-Hầu-La – Mahārāhulovāda Sutta

[63] Tiểu Kinh Māluṅkya – Cūḷamāluṅkya (Cūḷamālukya) Sutta

[64] Đại Kinh Mahāmāluṅkya – Mahāmāluṅkya (Mahāmālukya) Sutta

[65] Kinh Bhaddāli – Bhaddāli Sutta

[66] Kinh Ví Dụ Con Chim Cáy – Laṭukikopama Sutta

[67] Kinh Cātumā – Cātumā Sutta

[68] Kinh Naḷakapāna – Naḷakapāna Sutta

[69] Kinh Gulissāni – Gulissāni (Goliyāni) Sutta

[70] Kinh Kīṭāgiri – Kīṭāgiri Sutta

[71] Kinh Dạy Vacchagotta Về Tam Minh – Tevijjavacchagotta (Tevijjavaccha) Sutta

[72] Kinh Dạy Vacchagotta Về Lửa – Aggivacchagotta (Aggivaccha) Sutta

[73] Đại Kinh Vaccagotta – Mahāvacchagotta (Mahāvaccha)

[74] Kinh Trường Trảo – Dīghanakha Sutta

[75] Kinh Māgandiya – Māgandiya Sutta

[76] Kinh Sandaka – Sandaka Sutta

[77] Đại Kinh Mahāsakuludāyi – Mahāsakuludāyi Sutta

[78] Kinh Samaṇa­maṇḍikā – Samaṇa­maṇḍikā (Samaṇamuṇḍika)

[79] Tiểu Kinh Sakuludāyi – Cūḷasakuludāyi Sutta

[80] Kinh Vekhanassa – Vekhanassa (Vekhanasa) Sutta

[81] Kinh Ghaṭīkāra – Ghaṭīkāra (Ghaṭikāra) Sutta

[82] Kinh Raṭṭhapāla – Raṭṭhapāla Sutta

[83] Kinh Makhādeva – Makhādeva (Maghadeva) Sutta

[84] Kinh Madhurā – Madhurā Sutta

[85] Kinh Vương Tử Bồ Đề – Bodhirājakumāra Sutta

[86] Kinh Aṅgulimāla – Aṅgulimāla Sutta

[87] Kinh Ái Sanh – Piyajātika Sutta

[89] Kinh Pháp Trang Nghiêm – Dhammacetiya Sutta

[90] Kinh Kaṇṇakatthala – Kaṇṇakatthala Sutta

[91] Kinh Brahmāyu – Brahmāyu Sutta

[92] Kinh Sela – Sela Sutta

[93] Kinh Assalāyana – Assalāyana Sutta

[94] Kinh Ghoṭamukha – Ghoṭamukha Sutta

[95] Kinh Caṅkī – Caṅkī Sutta

[96] Kinh Esukārī – Esukārī Sutta

[97] Kinh Dhānañjāni – Dhānañjāni (Dhanañjāni) Sutta

[98] Kinh Vāsettha – Vāsettha Sutta

[99] Kinh Subha – Subha Sutta

[100] Kinh Saṅgārava- Saṅgārava Sutta

[101] Kinh Devadaha – Devadaha Sutta

[102] Kinh Năm Và Ba – Pañcattaya (Pañcāyatana)

[103] Kinh Nghĩ Như Thế Nào – Kinti Sutta.

[104] Kinh Làng Sama – Sāmagāma Sutta

[105] Kinh Thiện Tinh – Sunakkhatta Sutta

[106] Kinh Bất Động Lợi Ích – Āneñjasappāya Sutta

[107] Kinh Ganaka Moggallāna – Gaṇakamoggallāna Sutta

[108] Kinh Gopaka Moggallāna – Gopakamoggallāna Sutta

[109] Đại Kinh Mãn Nguyệt – Mahāpuṇṇama Sutta

[110] Tiểu Kinh Mãn Nguyệt – Cūḷapuṇṇama Sutta

[111] Kinh Bất Đoạn – Anupada Sutta

[112] Kinh Sáu Thanh Tịnh – Chabbisodhana Sutta

[113] Kinh Chân Nhân – Sappurisa Sutta

[114] Kinh Nên Hành Trì, Không Nên Hành Trì – Sevitabbāsevitabba Sutta

[115] Kinh Mật Hoàn – Bahudhātuka Sutta

[116] Kinh Thôn Tiên – Isigili Sutta

[117] Đại Kinh Bốn Mươi – Mahācattārīsaka Sutta

[118] Kinh Nhập Tức, Xuất Tức Niệm (Kinh Quán Niệm Hơi Thở) – Ānāpānasati Sutta

[119] Kinh Thân Hành Niệm – Kāyagatāsati Sutta

[120] Kinh Hành Sanh – Saṅkhārupapatti Sutta

[121] Kinh Tiểu Không – Cūḷasuññata Sutta

[122] Kinh Đại Không – Mahāsuññata Sutta

[123] Kinh Hi Hữu Vị Tằng Hữu – Acchariya-abbhūta Sutta

[124] Kinh Bạc-câu-la – Bakkula (Bākula) Sutta

[125] Kinh Điều Ngự Địa – Dantabhūmi Sutta125

[126] Kinh Phù-di – Bhūmija Sutta

[127] Kinh A-na-luật – Anuruddha Sutta

[128] Kinh Tùy Phiền Não – Upakkilesa Sutta

[129] Kinh Hiền Ngu – Bālapaṇḍita Sutta

[130] Kinh Thiên Xứ – Devadūta Sutta

[131] Kinh Nhất Dạ Hiền Giả – Bhaddekaratta Sutta

[132] Kinh A-nan Nhất Dạ Hiền Giả – Ānanda­bhaddekaratta Sutta

[133] Kinh Ðại Ca-chiên-ciên Nhất Dạ Hiền Giả – Mahākaccāna­bhaddekaratta Sutta

[134] Kinh Lomasakangiya Nhất Dạ Hiền Giả – Lomasa­kaṅgiya­bhaddekaratta Sutta

[135] Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt – Cūḷakamma­vibhaṅga Sutta

[136] Đại Kinh Nghiệp Phân Biệt – Mahākamma­vibhaṅga Sutta

[137] Kinh Phân Biệt Sáu Xứ – Saḷāyatana­vibhaṅga Sutta

[138] Kinh Tổng Thuyết Và Biệt Thuyết – Uddesavibhaṅga Sutta

[139] Kinh Vô Tránh Phân Biệt – Araṇavibhaṅga Sutta

[140] Kinh Giới Phân Biệt – Dhātuvibhaṅga Sutta

[142] Kinh Phân Biệt Cúng Dường – Dakkhiṇā­vibhaṅga Sutta

[143] Kinh Giáo Giới Cấp Cô Độc – Anātha­piṇḍik­ovāda Sutta

[144] Kinh Giáo Giới Channa – Channovāda Sutta

[145] Kinh Giáo Giới Phú-lâu-na – Puṇṇovāda Sutta

[146] Kinh Giáo Giới Nandaka – Nandakovāda Sutta

[147] Tiểu Kinh Giáo Giới La-hầu-la – Cūḷarāhulovāda Sutta

[148] Kinh Sáu Sáu – Chachakka Sutta

[149] Đại Kinh Sáu Xứ – Mahāsaḷ­āyatanika Sutta

[150] Kinh Nói Cho Dân Nagaravinda – Nagaravindeyya Sutta

[151] Kinh Khất Thực Thanh Tịnh – Piṇḍapāta­pārisuddhi Sutta

[152] Kinh Căn Tu Tập – Indriyabhāvanā Sutta

Những bộ Kinh khác :